Vài cảm nghĩ nhân 1 chuyến hành hương về đất Phật |
Kính dâng Giác Linh Sư Ông Khánh Anh
Chúng tôi và Giác Linh Sư Ông Khánh Anh vừa làm một chuyến hành hương đất Phật trở về. Chúng tôi rời nước Đức ngày 4.11.2013 và trở về ngày 20.11 đây lần đầu tiên chúng tôi có duyên về đất Phật, kỳ lạ thay cũng trong chuyến đi này không hẹn mà nên, chúng tôi còn có duyên được cúng lễ 100 ngày Sư Ông tại nơi thánh địa Bồ Đề Đạo Tràng (nơi Đức Phật Thành Đạo). Hôm nay ngồi viết lại mấy dòng cảm nghĩ này, trước là kính dâng lên Giác Linh Sư Ông, sau là muốn chia sẻ phần nào những suy nghĩ, cảm nhận của mình từ chuyến hành hương trên. Cuộc đời quả thật có những việc xảy ra mà mình khó lý giải, cứ ngỡ nó xảy ra 1 cách vô tình. Nhưng bình tâm nghĩ lại thực ra đều có logic của nó, nói theo giáo lý nhà Phật : không ngoài 2 chữ nhân duyên. Chả là, cách đây đúng 1 năm tôi còn lon ton theo chân Sư Ông Khánh Anh, sang tận Úc Châu đi ăn giỗ tổ đúng cảnh cha đâu con đấy. Sau chuyến đi đó trở về, tôi viết thư tâm sự với Thầy Quảng Đạo và Ni Sư Diệu Trạm rằng : con sẽ cố gắng sắp xếp công việc, để hàng năm có cơ hội ít nhất 1 lần theo hầu Sư Ông đi Phật sự xa dài ngày, để có dịp báo ơn và gần gũi phụng sự cha mình. Nhưng năm nay tôi buộc phải thất hứa với Sư Ông, vì ngay từ đầu năm tôi đã đăng ký đi hành hương về đất Phật gần 3 tuần mất rồi, ngày phép trong năm cũng đã cạn, vả lại tôi cũng chủ quan nghĩ rằng Sư Ông còn thọ lâu. Nào có ai ngờ chỉ 9 tháng sau, khi Khóa tu học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 25 tổ chức tại Phần Lan kết thúc được mấy ngày, Sư Ông đã cao đăng Phật Quốc, để lại sự tiếc thương trong hàng tứ chúng, sự ngơ ngác của đàn con trẻ mồ côi. Để rồi năm nay tôi vẫn có duyên theo hầu Sư Ông, nhưng hoàn cảnh đã khác mất rồi, ngoài hành trang giản dị trên đôi vai về đất Phật, tôi chỉ biết ôm theo di ảnh Giác Linh Sư Ông vào lòng. Và bây giờ con đâu cha đấy, Sư Ông nhé ! Điều đầu tiên tôi cảm nhận được trong chuyến đi này là : Giác Linh Sư Ông rất thiêng, ân đức Sư Ông rất lớn. Tôi dám khẳng định một điều : những ai có duyên với Sư Ông khi đi hành hương về đất Phật, nếu có Phật trong tâm, có di ảnh Giác Linh Sư Ông trong lòng, chắc chắn mọi chuyện đều hanh thông, viên mãn. Đoàn chúng tôi gồm 30 người đến từ VN và Đức gồm đủ thành phần, đặc biệt trong chuyến đi này có cả phóng viên báo nhiếp ảnh tháp tùng. Đoàn từ VN do Hòa Thượng Thích Huệ Minh viện chủ chùa Giác Uyển tại Sài Gòn dẫn đầu gồm 5 vị Tăng- Ni và 3 cư sĩ. Từ trong tiềm ẩn sâu xa tôi biết Hòa Thượng Huệ Minh và Sư Ông Khánh Anh đã có duyên hữu với nhau từ lâu, mỗi ngài đều có mật tu riêng. Nhưng đều giống nhau một điểm lòng từ bi và đức độ bao dung. Đoàn từ Đức do TT Thích Đồng Văn trụ trì chùa Phổ Bảo (München) dẫn đầu gồm hai vị Tăng và 20 cư sĩ. Nhìn chung thành phần của đoàn : Tăng nhiều - Ni ít, Ưu Bà Tắc ít- Ưu Bà Di nhiều. Cả hai đoàn đều thống nhất lấy trung tâm Bồ Đề Đạo Tràng làm điểm gặp gỡ hội tụ. Thầy Đồng Văn cẩn thận lắm, thường trước khi khởi hành những chuyến đi Phật sự xa hay dài ngày, Thầy bao giờ cũng nhắc nhở mọi người nên vân tập về chùa tụng kinh lễ Phật, rồi xin với Phật và Bồ Tát gia hộ cho cả đoàn đi đến nơi về đến chốn. Năm nay có sự cố đáng buồn, chả hiểu vì sao ? hồi đầu tháng bảy vừa rồi có thành phần quá kích, đánh bom ở Bồ Đề Đạo Tràng, may nhờ gia hộ của Phật, Bồ Tát nên thánh địa không bị hư hỏng nhưng làm một vị Lạt Ma Tây Tạng bị thương. Sân bay gần Bồ Đề Đạo Tràng mở muộn, đoàn từ Đức phải bay đến sân bay Patna - thủ phủ của tiểu bang Bihar cách Bồ Đề Đạo Tràng gần 100 km, rồi thuê xe Bus đi gần 5 tiếng mới về đến nơi. Đón chúng tôi tại sân bay Patna là anh Manis, ông chủ của một hãng xe du lịch và cũng là người tháp tùng giúp đoàn trong suốt chặng đường 14 ngày đi hành hương đất Phật. Anh và tôi giống nhau một điểm : vòng bụng đều quá cỡ nhưng chiều cao anh hơn hẳn tôi một cái đầu, anh rất tốt và giản dị. Nhờ có anh đi cùng nên mỗi lần đi chợ chúng tôi không phải mặc cả nhiều lần, mua thường sát giá và tránh được những cuộc tranh cãi không cần thiết với người bản xứ. Sau cái bắt tay thân thiện và đón nhận vòng hoa Cúc vàng choàng lên mọi người từ anh Manis, xe bắt đầu chuyển bánh. Lên xe Bus tôi hay thích ngồi hàng ghế cuối cùng, đường xá bên Ấn Độ rất xấu nhiều ổ gà, ngồi hàng cuối hay bị xóc nhưng bù lại có cơ hội bao quát cả đoàn và ngắm phong cảnh hai bên đường. Xe chạy qua những thị trấn và làng quê chợ nhỏ, giao thông xe cộ bên Ấn Độ cũng hỗn loạn như ở Việt Nam nhưng có khác từ các phương tiện thô sơ đến xe cơ giới thường nhường nhịn nhau, tỉ lệ bấm còi chỉ bằng một phần mười so với Việt Nam, đặc biệt các ngôi chợ chủ yếu bán rau, hoa quả và hàng nông thổ sản. Suốt 14 ngày trên đất Ấn Độ mỗi lần đi chợ tôi không tìm đâu ra thấy một phản thịt, hay bán gia súc như ở Việt Nam. 80 phần trăm người Ấn Độ có mức sống nghèo khổ nhưng ở chợ và trên đường không hề thấy cảnh trộm cắp, cướp giật, đánh cãi chửi nhau như ở quê mình. Đặc biệt không có những quán cơm tù như ở Việt Nam. Mãi sau này Thầy Đồng Văn mới tâm sự : Thầy và Thầy Hạnh Tấn, cùng các Thầy cô khác theo học suốt 7 năm trên đất nước Ấn Độ mặc dù sinh hoạt khó khăn, ăn uống kham khổ mà chả có ai mắc bệnh tật ốm đau gì hết, chứng tỏ môi trường ở đây tốt anh ạ ! tôi thành thật chia xẻ ý kiến của mình : chắc con nghĩ vì người Ấn Độ phần lớn ăn chay không có sát sinh đấy Thầy à ! Thầy vui vẻ đồng ý : Thầy cũng nghĩ như anh đó. Về đất Phật mỗi người trong đoàn ai ai cũng háo hức mang một tâm trạng khác nhau. Sau sự viên tịch đột ngột của Sư Ông Khánh Anh, bản thân tôi có rất nhiều thay đổi trong suy nghĩ. Tôi học được từ Sư Ông cách nhìn đời, nhìn người với con mắt bao dung và nhẹ nhàng hơn. Thực lòng mà nói, về đất Phật lần này tôi chỉ muốn quỳ dưới chân Người cung kính đảnh lễ và thốt lên ba chữ : Tạ Ơn Phật. Tạ Ơn Phật đã gia hộ cho Giác Linh cha tôi, cả cuộc đời tu hành có thể nói không ngoài hai chữ : viên thành. Tạ Ơn Phật, nhờ giáo lý của Người mà gia đình tôi có cuộc sống bình an và từ trong tâm khảm sâu xa tôi muốn xin với Phật, Bồ Tát gia hộ cho chúng tôi có đủ sức, đủ lực, đủ tâm để cùng quý Thầy, quý Cô hoàn thành nốt công trình xây dựng chùa Khánh Anh mới ở Evry ( Paris- Pháp) theo đúng như ý nguyện của Sư Ông để lại. Nhưng háo hức và hồi hộp hơn cả là chị Trinh. Chuyện thật mà như đùa : mang tiếng là sống ở Đức và Ý- trung tâm văn hóa Âu Châu đã gần 40 năm, nhưng với chị đây là lần đầu tiên trong đời, chị được đi máy bay. Chả là chị và gia đình vượt biên cuối những năm bảy mươi, sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, được tàu quân sự hạm đội Ý cứu vớt đưa về định cư. Mấy năm sau đó chị lấy chồng bên Đức, chị bước lên xe hoa bằng đường bộ về nhà chồng. Cuộc đời chị là mẫu người phụ nữ tần tảo, một nắng hai sương nuôi chồng nuôi con, chưa một lần đi đâu xa, nên với chị chưa có khái niệm về máy bay. Nay con cái đã lớn và trưởng thành, anh chị mới đủ duyên về đất Phật. Gần anh chị, tôi học được đức tính khiêm cung nhẫn nại, âm thầm hộ trì Tam Bảo, làm việc Phật sự hết lòng nhưng không bao giờ ca thán, kể công. Mãi nghĩ miên man, xe về đến Bồ Đề Đạo Tràng là gần 20 giờ tối, cả đoàn tá túc tại ngôi chùa Đài Loan cách Bảo Tháp độ 10 phút đi bộ, sau khi nhận phòng, thu xếp đồ đạc, chúng tôi lên Bảo Tháp đảnh lễ đức Phật, thưa với Ngài chúng con đã về. Sau sự cố tháng 7 vừa rồi, khu bảo tháp an ninh được kiểm tra rất chặt chẽ phải qua hai vòng khám xét của cảnh sát mới vào được bên trong. Trước khi bước vào khuôn viên bảo tháp, tất cả khách hành hương không ai bảo ai, đều tự nguyện bỏ giày dép lấm bụi đường để bên ngoài. Bồ đề đạo tràng có diện tích khoảng 3 hecta, xung quanh bao bọc bởi các hàng cây tán lá xum xuê, khi màn đêm bao phủ, toàn bảo tháp được chiếu sáng bởi một hệ thống đèn rất trang nhã, làm cho những du khách lần đầu đến Bồ Đề Đạo Tràng như tôi đều có chung một cảm nhận : hùng vĩ, trang nghiêm và thanh tịnh. Theo sự hiểu biết của tôi, Bồ Đề Đạo Tràng có hai nơi tôn thờ quan trọng : tháp Bồ Đề Đạo Tràng (Mahabodhi Temple) và cây Bồ Đề. Tháp Bồ Đề Đạo Tràng cao khoảng 52 m, được xây cất theo kiểu hình chóp nhọn vươn cao, trên đó có thờ Xá Lợi Phật. Bốn mặt của tháp đều có những tháp nhỏ, có nhiều góc tường đặt tượng Phật bằng vàng với nghệ thuật điêu khắc tinh xảo, mang nặng dấu ấn Phật giáo. Thực tình mà nói trong các thánh tích Phật giáo ở Ấn Độ mà chúng tôi viếng thăm đảnh lễ, tôi chỉ thấy Bồ Đề Đạo Tràng là còn nguyên vẹn, được bảo quản và tu bổ nhiều nhất. Hôm chúng tôi đến, nóc bảo tháp đang được tiến hành giát vàng. Sau một thời gian thương thuyết khá căng thẳng giữa Hoàng Gia Thái Lan và chính phủ Ấn Độ. Đến phút cuối cùng nhờ Phật độ, chính phủ Ấn Độ đã đồng ý để Vua Thái Lan cúng dường 300 kg vàng ròng (vàng 9999), số vàng này được giát mỏng thành từng tấm dày 2mm ốp trực tiếp trên nóc bảo tháp. Chính phủ Thái Lan đã cắt cử các nhân viên hàng không, cảnh sát theo dõi trực tiếp, bảo vệ dự án này. Hàng ngày các nhân viên công quyền trên, đều 4 lần vào bảo tháp lễ Phật, xin Người gia hộ cho công việc được trôi chảy hoàn mỹ. Trong bảo tháp có thờ một pho tượng Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni cao khoảng hơn 2 m bằng vàng, có tuổi thọ đã hơn 1.000 năm, rất linh thiêng. Cũng chính nơi đây dưới chân Ngài chúng tôi có được cơ duyên cúng lễ 100 ngày Giác Linh Sư Ông Khánh Anh. Tất nhiên trong mâm cỗ chay thịnh soạn, không thể thiếu món cổ truyền, sở thích của Sư Ông. Đó là bát mỳ chay ăn liền nóng hổi, với ít rau thơm trang điểm bên trên. Phía sau bảo tháp có cây Bồ Đề tàn lá xum sê như một cây cổ thụ, mặc dù nó mới được trồng khoảng cuối thế kỷ 19. Người ta phải xây hàng hoa hiên xung quanh để bảo vệ và hàn những giá đỡ bằng thép giúp tàn cành khỏi gẫy. Cây Bồ Đề này, cũng là sự tái sinh của cây Bồ Đề gốc mà Đức Phật đã ngồi thiền 49 ngày thành đạo. Hàng ngày có hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới về đây thăm viếng đảnh lễ cúng dường. Ngày đầu trên đất Phật sau thời công phu khuya, sau bữa điểm tâm cháo hoa nhẹ nhàng. Chúng tôi được Thầy Đồng Văn dẫn đi mua y, gạo, dầu ăn, bánh kẹo, hoa tươi mang vào bảo tháp dâng lên cúng Phật. Theo lời kể của những người đi trước : những tấm vải dâng lên cúng Phật để làm y, rất là linh thiêng nếu người nào nằm ngủ hay bị mộng mị, bóng đè, hoặc nhà có trẻ nhỏ ban đêm thường hay thức giấc khóc quấy, nên xin quý Thầy cho thỉnh lấy một tấm mang về thờ chỉ cần cắt một miếng nhỏ để vào gối đầu giường là mọi chuyện mộng mỵ tan biến, trẻ nhỏ ngủ yên. Buổi chiều hôm đó chúng tôi được Thầy dẫn đi bách bộ, thăm và cúng dường các ngôi chùa Miến Điện, Nhật Bản, Tây Tạng, Trung Tâm Tu Học Viên Giác, Việt Nam Phật Quốc Tự xung quanh bảo tháp. Mỗi ngôi chùa có một kiểu kiến trúc khác nhau tạo nên một sự đa dạng phong phú trên đất Phật. Nhưng ngôi chùa làm tôi suy nghĩ và có ấn tượng hơn cả là Trung Tâm Tu Học Viên Giác. Từ ngôi chùa Đài Loan theo đường tắt đi bộ độ 10 phút, qua một làng nghèo đầy phân bò, và cống rãnh hôi thối chúng tôi bước vào khuôn viên Trung Tâm Tu Học Viên Giác. Chỉ cách nhau một bức tường thôi, vậy mà hai khung cảnh thế giới hoàn toàn khác, chùa rất khang trang và sạch sẽ. Dọc đường đi khi bước lên chánh điện ở tầng ba, tôi để ý hầu hết các vật liệu xây dựng, hệ thống thông hơi, hệ thống chống cháy đều đạt tiêu chuẩn như ở bên Đức. Ngôi chùa này theo tôi biết do hai đệ tử lớn của Hòa Thượng Như Điển là Thầy Hạnh Tấn, Thầy Hạnh Nguyện phát nguyện xây dựng, làm lễ động thổ từ cuối năm 1999, khi hai Thầy mới ngoài 30 tuổi, sau 3 năm xây cất đã hoàn tất. Trong ngày khánh thành, hai Thầy cung kính, dâng lên cúng dường Sư Phụ. Tấm gương làm việc Phật sự hết lòng, hết sức, không một toan tính, không 1 ràng buộc, không bị chấp ngã và sẵn sàng buông bỏ. Sao tôi thấy giống hạnh nguyện của Sư Ông Khánh Anh đến thế, đấy mới là điều làm cho tôi hết sức kính phục. Ai đã từng một lần về đất Phật, đều nhận thấy rằng ở đất Phật có cái rất lạ, chắc do gia trì của Phật, sự nhiếp hóa của Ngài, ai ai cũng chỉ thèm tu. Ngoài thời công phu khuya và khóa tu tịnh độ buổi chiều cùng cả đoàn, thời gian còn lại mỗi cá nhân chúng tôi đều tận dụng từng giờ, từng phút ngồi thiền, lễ lạy, tụng kinh, tam bộ nhất bái xung quanh bảo tháp. Đặc biệt mọi người trong đoàn dù mới gặp nhau lần đầu, nhưng ai ai cũng có tâm trạng an lạc, hoan hỷ luôn rộng lòng chia xẻ với nhau những hiểu biết và kinh nghiệm tu tập của mình. Hôm thứ hai trên đất Phật mới là 3 rưỡi sáng mà tôi đã tỉnh giấc, tôi đoán chắc Giác Linh Sư Ông đánh thức tôi dậy đó. Tôi tỉnh dậy lòng hoan hỷ, làm vệ sinh cá nhân thật nhanh, rồi đến trước di ảnh Giác Linh Sư Ông lễ ba lạy, thỉnh nguyện : Sư Ông đi với con ra bảo tháp, cha con mình cùng công phu khuya, Sư Ông nhé ! Thời tiết đầu đông ở tiểu bang Bihar miền đông bắc Ấn Độ vào buổi sáng sớm khá lạnh, ra đến nơi mới biết phải đợi một tiếng nữa, vì đến 5 giờ sáng bảo tháp mới mở cửa. Thôi cũng là dịp may cho cha con tôi, có cơ hội quan sát một buổi sáng nhịp sống ở Bồ Đề Đạo Tràng bắt đầu ra sao ? tôi ngồi đó lần tràng hạt niệm Phật và thưởng thức cái tĩnh mịch của buổi sớm ban mai, phảng phất đâu đây hương thơm ngào ngạt như mùi hoa sữa, tự nhiên khoảng bốn giờ rưỡi sáng trên những tàng cây cổ thụ xung quanh bảo tháp, hàng ngàn con chim líu lo ca hát. Chắc kiếp nào tôi đã từng là loài chim, tôi hiểu rằng chúng đang tấu lên những bài ngợi ca công ơn đức Phật. chợt nhìn xuống cả đàn chó mấy chục con đang nô đùa, tung tăng chạy quanh bảo tháp, có con mệt quá nằm lăn ra ngủ dưới chân tôi một cách vô tư, hồn nhiên. Tôi thầm nghĩ, những con chim và bầy chó này thật có phước, chúng có duyên sinh ra nơi đất Phật được sự che chở của Ngài, mới hưởng được sự bình an thế này. Chứ cũng kiếp đó, sinh ở Việt Nam chắc đã nằm trên lò nướng hoặc nằm trong nồi ướp giềng mẻ, mắm tôm ở các quán nhậu mất rồi. Chúng gặp tôi là may lắm đó, dẫu sao mình cũng là con Phật, thọ Tam Quy Ngũ Giới rồi. Chứ không, gặp độ 2 thằng con cháu bác Hồ- những kẻ vô thần, có nghề câu trộm chó chuyên nghiệp ở Việt Nam gửi sang đây là xong đời rồi. Ơn Phật thật là vô biên, mình đã vậy ngay cả các loài vật dưới chân Ngài cũng nhận được sự che trở bình an. Thế mới biết trên con đường tu tập hai yếu tố : bạn đạo và môi trường cảnh giới là vô cùng quan trọng đối với những người mới bước chân học đạo như tôi. Nói theo người đời : gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Chắc gần người tử tế, mình dễ học các đức tính để làm người tử tế chăng ? Thấp thoáng đâu đây đã có một vài người Ấn Độ bày hoa tươi ra bán cho du khách mua vào cúng Phật, một vài người ăn mày đã ngồi trong tư thế sẵn sàng mưu sinh cho cuộc sống cả ngày. Tôi đứng dậy hòa mình trong dòng người đi vào bảo tháp công phu khuya. Không quy định nhưng đã thành thói quen từ lâu. Tăng sĩ và Phật tử Việt Nam mỗi khi về đây thường công phu khuya dưới gốc cây Bồ Đề sau bảo tháp. Hôm mới lên đường, nhiều người đã cảnh báo cho tôi biết đất nước Ấn Độ rất nghèo, bẩn và bụi. Nhưng họ không biết rằng Ấn Độ còn là thiên đường cho tất cả các loài động vật vì ở đây chúng không bị xua đuổi, giết hại và luôn chung sống đoàn kết với loài người. Ngày thứ ba trên đất Phật, chúng tôi được Thầy dẫn đi viếng thăm vườn Trúc Lâm, đại học Nalanda (trường đại học Phật Giáo đầu tiên trên thế giới) và núi Linh Thứu nơi Đức Phật giảng các bộ kinh đại thừa : Đại Bát Nhã Ba La Mật, Diệu Pháp Liên Hoa, Vô Lượng Nghĩa... Nghe những người đi trước kể lại : trước đây đường đi lên núi Linh Thứu khá gồ ghề đá sỏi khó đi, mấy năm gần đây nhờ Nhật Bản đầu tư xây dựng đường lên đỉnh núi đã được tu bổ lát gạch, rộng độ hơn 2 m. Cả đoàn phát nguyện : ai có sức thì lạy tam bộ nhất bái, còn không đủ sức : thì tam bộ niệm Phật. Cũng chính nơi đây mọi người mới biết Phật và Giác Linh Sư Ông Khánh Anh linh thiêng biết chừng nào, trong số 23 cư sỹ trong đoàn chỉ có tôi, anh Thạnh và em Vân là 3 ưu bà tắc. Anh Thạnh yếu lắm đã về hưu non, ngày thường không nhấc nổi vật nặng quá 7 kg, nhiều khi đi phải bám vào vợ, còn em Vân từ Việt Nam qua, trước lúc đi hành hương Ấn Độ bị tai nạn xe máy gẫy tay vẫn còn rất đau nhức. Vậy mà khi đến chân núi Linh Thứu, anh đã cùng tôi phát nguyện tam bộ nhất bái. Tôi bảo : thôi được, vậy chị Trinh (vợ anh) đi bên cạnh, ôm di ảnh Giác Linh Sư Ông Khánh Anh vừa đi tam bộ niệm Phật, niệm Giác Linh Sư Ông hộ trì cho anh Thạnh nhé ! Chúng tôi vừa lạy, vừa niệm to hồng danh Phật, Bồ Tát, Giác Linh Sư Ông Khánh Anh gia hộ. Dọc đường đón và động viên chúng tôi là những người ăn mày Ấn Độ nghèo khổ, chắc họ biết mình là những phật tử Việt Nam, họ đồng thanh niệm Nam Mô A Di Đà Phật rất rõ. Từng bước chân, từng ý niệm tôi chỉ biết âm thầm hồi hướng công đức này đến cho họ, mong họ phát tâm tu tập để thoát khỏi kiếp ăn mày. Thật kỳ diệu làm sao, sau hơn 3 tiếng đồng hồ dưới cái nắng trang trang ngột ngạt, sau khoảng hơn 640 lạy anh đã cùng tôi có mặt trên đỉnh núi (hương thất của Đức Thế Tôn). Thế mới biết trên con đường tu học, yếu tố phát tâm là quan trọng hàng đầu. Chị Trinh cứ trầm trồ tán thán cảm tạ Phật, Giác Linh Sư Ông Khánh Anh đã giúp cho chồng chị làm được những điều kỳ diệu như vậy. Đặt di ảnh Giác Linh Sư Ông trên đỉnh núi giữa một khoảng trời bao la, tiếng tụng kinh niệm Phật của cả đoàn vang vọng cao xa. Tôi chỉ biết xin Phật, Bồ Tát, Giác Linh Sư Ông chứng minh lòng thành, gia hộ cho chúng tôi nghiệp chướng tiêu tan, vọng tưởng biến mất, có nhiều định lực trên con đường tu tập. Dọc đường xuống chúng tôi dừng chân vào thăm thạch thất đơn sơ của Ngài A Nan Đà (đệ nhất Đa văn), ngài Xá lợi Phất (đệ nhất Trí tuệ), Mục Kiền Liên (đệ nhất Thần thông) và ngài Ca Diếp đều là các đệ tử lớn của Đức Phật. Nghĩ mà rớt nước mắt, thấy kính phục cuộc sống giản dị của Đức Phật và các đệ tử của Ngài, thấy hổ thẹn cho mình. Khi xuống núi, em Vân cứ xin ôm di ảnh Giác Linh Sư Ông vào lòng, để Sư Ông gia hộ cho sức khỏe, quả thật suốt hơn 10 ngày còn lại, em Vân hết đau và tham gia các sinh hoạt với đoàn rất hoan hỷ, đầy đủ. Bảy ngày sau, đoàn chúng tôi tạm chia tay Bồ Đề Đạo Tràng hẹn gặp lại nơi đây những ngày cuối. Hướng tiếp theo xe Bus đưa chúng tôi tới chiêm bái - Câu Thi La (Kushinarga) nơi Đức Phật nhập niết bàn. Thời gian ngồi trên xe Bus cũng là dịp cho cả đoàn tu tập. Hai ngày đầu chúng tôi được Hòa Thượng Huệ Minh cho trì tụng trọn bộ kinh Thủy Sám. Sau hai ngày hai đêm với chặng đường hơn 450 km, đoàn chúng tôi đã đặt chân đến Câu Thi La. Đến với thánh tích Kushinarga này, chúng tôi được chiêm bái hai nơi linh thiêng nhất : nơi đức Phật nhập niết bàn và nơi diễn ra lễ trà tỳ kim thân của Đức Thế Tôn. Nơi đức Phật nhập niết bàn bây giờ là một bảo tháp được xây dựng vào năm 1956, trên nền của một ngôi chùa cổ cũ, trong đó có một pho tượng đá tạc dáng Ngài nằm nhập niết bàn dài hơn 6 m, do một Tăng sĩ thực hiện, vào khoảng thế kỷ thứ năm sau công nguyên. Tại đây chúng tôi dâng y, đảnh lễ nhiễu quanh pho tượng Phật nhập Niết bàn. Nhìn đoàn người nối đuôi nhau vào đảnh lễ, đi nhiễu Phật lòng tôi buồn và tủi thân vô hạn, cha con tôi là những kẻ thiếu phước, sinh ra muộn màng không có duyên gặp Phật, nên số phận mới long đong thế này. Tôi chợt nhớ bài thơ của ngài Huyền Trang, viết khi ngài đến Ấn Độ du học, thỉnh kinh, sao mà xúc động đến thế :
Phật tại thế thời ngã trầm luân
(khi Phật có mặt trên đời này con còn trầm luân trôi nổi ở nơi đâu, khi con được làm người ở cõi này thì Phật đã nhập diệt, con quá buồn tủi vì bản thân nghiệp chướng nhiều, nên không được diện kiến sắc thân của Như Lai). Hình ảnh này làm tôi nhớ lại, suốt 13 ngày tang lễ của Sư Ông Khánh Anh, Giác Linh Đường nơi đặt Kim Quan không bao giờ ngớt tiếng niệm Phật. Tôi có duyên được đứng hầu Kim Quan Sư Ông. Mà lạ lắm, sau tang lễ tôi còn được lau chùi nơi đặt Kim Quan của người, vẫn ngào ngạt mùi hương thơm tỏa ra. Ra đến ngoài gặp hai cây Ta La Song thọ, tôi vội trách : sao Sư Ông lại Cao Đăng Phật Quốc sớm vậy ? thường thường trong các khóa tu học Phật Pháp Châu Âu trước đây, mặc dù bận công tác tổ chức, nhưng bao giờ Sư Ông cũng lên lớp 2 giảng pháp cho chúng tôi nghe. Mấy năm đó tôi được nghe Sư Ông giảng bộ kinh Di Giáo (bộ kinh cuối cùng của Đức Phật trước khi Ngài nhập niết bàn) trong đó Sư Ông giảng rất kỹ hình ảnh hai cây Ta La Song Thọ. Thực tình ngày đó tôi nghe chỉ biết vậy, biết gì đâu để mà hỏi. Nay được đến tận nơi sở thị, biết chút chút muốn hỏi, thì Sư Ông đã Cao Đăng Phật Quốc ! Tạm biệt Câu Thi La, đoàn chúng tôi sang Nepal để đi thăm vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) nơi đức Phật đản sanh. Chúng tôi đến biên giới Ấn Độ - Nepal qua cửa khẩu Sonauli vào buổi chiều tà, khi hàng quán bên đường bắt đầu dọn dẹp, sau hơn 3 tiếng chờ đợi, với ít lệ phí bôi trơn như ở Việt Nam, cả đoàn đã có visa. Vườn Lâm Tỳ Ni cách biên giới Ấn Độ khoảng 40 km. Hai đêm ở vườn Lâm Tỳ Ni cả đoàn tá túc ở ngôi chùa Việt Nam Phật Quốc Tự của Hòa Thượng Huyền Diệu, từ ngôi chùa này đi bộ lững thững khoảng 20 phút chúng tôi đã vào khuôn viên của vườn Lâm Tỳ Ni, khi chúng tôi đến khu vực này đang được tu sửa mới, để bảo tồn tính nguyên thủy, giữ cho sự thanh tịnh tại thánh địa, xung quanh chính phủ Nepal chỉ cho phép xây dựng các tu viện chùa chiền Phật giáo, cấm chỉ xây dựng khách sạn nhà hàng. Nhớ lại buổi tối đầu tiên ở vườn Lâm Tỳ Ni, đoàn tá túc tại chùa Việt Nam Phật Quốc Tự, đón chúng tôi là chị D.T - người trông nom toàn bộ ngôi chùa khi Thầy trụ trì vắng mặt, những phút đầu gặp gỡ chị phổ biến những quy định khá nghiêm ngặt và dài dòng. Tâm lý chung sau 5 ngày liên tục ngồi xe Bus, mọi người trong đoàn ai ai cũng mệt muốn đi nghỉ sớm, loáng thoáng đâu đây tôi đã được nghe những tiếng đối thoại có tần số hơi cao. Thầy Đồng Văn rất nhanh chỉ vào tôi, phong cho tôi chức trưởng đoàn bất đắc dĩ, để làm người đại diện tiếp nhận những lời huấn thị của chị. Quả thật khi nghe những lời nghiêm khắc, tôi hơi nổi sân và có mặc cảm với chị. Thường ngày tôi là người nóng tính. Lạ thay, tự nhiên văng vẳng bên tôi, nụ cười và lời nhắc nhở nhẹ nhàng của Giác Linh Sư Ông : Quảng Trực con, hãy cẩn thận trước khi đánh giá nhận xét một con người ! Tâm sân trong tôi biến mất, đức tính nhẫn nhục, nhẫn nại của Sư Ông đâu đó hiện về, tôi âm thầm nhắc mọi người làm đúng theo những điều quy định mà chị D. T đã yêu cầu. Đêm hôm đó mặc dù đã khuya, lúc chị D. T. bấm đèn pin đi kiểm tra nhà bếp, trai đường chị thấy tất cả sạch sẽ, gọn gàng. Đặc biệt chị còn bắt gặp hình ảnh em Yến (nguyên là phóng viên báo chí), một thành viên trong đoàn vẫn đang âm thầm lau sàn. Tự nhiên sáng hôm sau, mọi người trong đoàn ai ai cũng ngạc nhiên, thái độ chị khác hẳn, rất vui vẻ cởi mở, tự tay chị pha trà mời quý Thầy, quý Cô và chiêu đãi cả đoàn bánh đậu xanh đặc sản của tỉnh Hải Dương. Sau này khi hỏi thăm hóa ra chị cũng ở gần nhà tôi, chị là Việt Kiều trí thức bên Tân Tây Lan đang viết luận án tiến sỹ sinh học. Đến đây tôi mới thấm thía lời dạy của Sư Ông : trên con đường tu học, lúc nào các con cũng nên chỉ thấy lỗi của mình, nên giữ thái độ hồi quang, phản chiếu trong nội tâm. Cuộc đời có những sự trùng lặp huyền bí khó lý giải, trước khi đi hành hương tôi có nhận được thư của Thầy Quảng Đạo và Ni Sư Diệu Trạm, mời sang chùa Khánh Anh dự lễ 100 ngày của Sư Ông. Nhìn tấm lịch treo tường, tôi biết mình thất hứa mất rồi, chả là đúng ngày đó chúng tôi đang có mặt trên đất Phật. Trong thâm tâm, tôi tâm sự với Giác Linh Sư Ông : Sư Ông ơi ! đúng lễ 100 ngày của Sư Ông con không sang được chùa Khánh Anh đâu nhé ! Vì con đi hành hương mà, thôi thì đúng lễ 100 ngày Sư Ông ở đâu, con sẽ làm lễ cúng Sư Ông ở đó. Chuyện thật lạ, không hẹn mà nên, cả cuộc đời Sư Ông luôn lo phụng sự cho Tam Bảo, và xây dựng Tăng Đoàn, thì đúng ngày đó đoàn chúng tôi với di ảnh Giác Linh Sư Ông đi cùng, về đến vườn Lộc Uyển (Sanarth). Nơi đây Đức Phật chuyển pháp luân, giảng bài pháp đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như. Cũng chính nơi đây đánh dấu sự hình thành ngôi Tam Bảo và Tăng đoàn. Sự trùng lặp kỳ lạ này tôi tin Phật, và Bồ Tát muốn vậy. Viết đến đây, tôi muốn kể cho mọi người câu chuyện lạ lùng : Trước lúc đến vườn Lộc Uyển, đoàn chúng tôi đã thăm, làm lễ trên sông Hằng, vì 4 giờ sáng hôm đó chúng tôi đã đến thành phố Sanarth. Anh Manis thuê cho đoàn một chiếc thuyền, để chúng tôi làm lễ cầu siêu, thả đèn hoa đăng trên sông Hằng do Hòa Thượng Huệ Minh làm chủ lễ, với sự chứng minh của Giác Linh Sư Ông Khánh Anh. Sau hơn hai tiếng làm lễ, lúc đó khoảng gần 6 giờ 30 phút sáng, mặt trời bắt đầu mọc. Tính đến hôm nay, tôi là người duy nhất trong đoàn sau 7 ngày đi chiêm bái (ngủ muộn dậy sớm, ăn ít đi nhiều) mà không bị ốm, lúc đó thuyền vẫn bơi giữa sông, tôi tỏ ra dáng phong trần, đứng đầu mũi thuyền tay ôm di ảnh Giác Linh Sư Ông trước ngực, niệm Nam Mô A Di Đà Phật và tụng chú Vãng Sanh rất to, kỳ lạ thay có một đàn chim Hải Âu khoảng mấy trăm con, bay lượn mấy vòng trên đầu theo hình chữ hỷ- xả, líu lo ca hát, mà chỉ trên chiếc thuyền của Đoàn. Mặc dù lúc đó tôi để ý xung quanh mình có rất nhiều con thuyền của các đoàn hành hương khác. Nhìn cách trang phục, tôi đoán họ là những người đi thám hiểm thiên nhiên, còn chúng tôi là đoàn đi thám hiểm về tâm linh. Chắc nhờ lời kinh, lòng thành kính của mọi người cùng đức độ từ bi, uy lực của Giác Linh Sư Ông Khánh Anh và Hòa Thượng Huệ Minh nên được chư vị Phật, chư vị Bồ Tát cảm ứng chăng ? Thực tình mà nói, lúc tưởng nhớ lễ 100 ngày của Sư Ông trong Vườn Lộc Uyển chúng tôi chỉ có nén tâm hương dâng lên Phật, Bồ Tát và Giác Linh Sư Ông mà thôi. Tôi thì thầm với Giác Linh Sư Ông : vì điều kiện không cho phép, thôi để ngày mai về đến Bồ Đề Đạo Tràng con sẽ cùng mọi người làm cỗ cúng Phật và Sư Ông nhé ! Đoạn đường từ Sanarth trở về Bồ Đề Đạo Tràng khoảng 240 km khá đẹp, xe chạy khoảng 7 tiếng chúng tôi đã trở về thánh địa này. Theo kế hoạch chúng tôi sẽ làm nốt hai công việc cúng dường Trai Tăng trong Bảo Tháp, và chẩn bần (phát quà cho những người nghèo). Sáng hôm sau, sau thời khóa công phu khuya tại bảo tháp, tôi phát nguyện làm lễ xuống tóc, để tưởng nhớ, thọ tang Sư Ông nhân lễ 100 ngày của người (từ khi Sư Ông mất, đây là lần thứ hai tôi xuống tóc thọ tang). Lúc làm lễ xuống tóc tại bảo tháp có Phật, Bồ Tát, Giác Linh Sư Ông chứng minh. Tôi vẫn nghe văng vẳng đâu đây tiếng nói nhẹ nhàng của Sư Ông khi người đến thăm chúng tôi, lần đầu và cũng là lần cuối vào buổi tối tết dương lịch trước khi tiễn người ra sân bay trở về Pháp hôm 1.1.2013 : lần sau Sư Ông đến, nhà con thành ngôi chùa! Nghĩ mà nhớ da diết trong lòng. Sau hơn hai tuần hành hương trên đất Phật tôi nhận ra một điều : Đức Phật là con người có thật, chứ không phải là con người trong huyền thoại hay trong chuyện cổ tích. Là con Phật, mỗi chúng ta nên mơ ước ít nhất một lần trong đời được về đất Phật, được đi chiêm bái các thánh tích Phật Giáo. Đi rồi ta sẽ nhận thấy Đức Phật rất gần gũi với mình. Biết các địa danh thánh tích rồi, tự nhiên khi tụng kinh, sao ta thấy lời kinh gần gũi vậy. Muốn thế phải phát tâm tu tập, gieo duyên thật nhiều với các chư vị Phật, chư vị Bồ Tát dù ở bất cứ hình thức nào. Nói không quá lời : dù là vật vô tri vô giác, dù chỉ là một hòn sỏi, hay một nắm đất ở nơi đất Phật sao ta thấy nó có giá trị, linh thiêng một cách lạ thường. Mỗi chúng ta chỉ khác nhau ở một điểm : niềm tin và sự tinh tấn tu tập mà thôi. Riêng với chúng tôi chuyến đi này là lần đầu, nhưng hy vọng nó sẽ mở cho chúng tôi những chuyến đi lần sau, và mãi mãi về sau chỉ một con đường không ngoài ba chữ : Về Với Phật ! Mong mỏi lắm thay ! Thành phố Ingolstadt - Tây Đức những ngày cuối năm 2013. Quảng Trực - Diệu HảiXa Gần Có một vị hiền triết đã hỏi các đệ tử rằng : - Tại sao trong cơn giận dữ người ta thường phải hét thật to vào mặt nhau ? Sau một lúc suy nghĩ, một trong những đệ tử ấy đã trả lời : - Bởi vì người ta mất bình tỉnh, mất tự chủ ! Vị hiền triết không đồng ý với câu trả lời, ngài bảo : - Nhưng tại sao phải hét lên trong khi cả hai đang ở cạnh nhau, tại sao không thể nói với một âm thanh vừa phải đủ nghe ? Các đệ tử lại phải ngẫm nghĩ để trả lời nhưng không có câu giải thích nào khiến vị thầy của họ hài lòng. Sau cùng ông bảo : - Khi hai người đang giận nhau thì trái tim của họ đã không còn ở gần nhau nữa. Từ trong thâm tâm họ cảm thấy giữa họ và người kia có một khoảng cách rất xa, nên muốn nói cho nhau nghe thì họ phải dùng hết sức bình sinh để nói thật to. Sự giận dữ càng lớn thì khoảng cách càng xa, họ càng phải nói to hơn để tiếng nói của họ bao trùm khoảng cách ấy. Ngưng một chút, ngài lại hỏi : - Còn khi hai người bắt đầu yêu nhau thì thế nào? Họ không bao giờ hét to mà chỉ nói nhỏ nhẹ, tại sao? Bởi vì trái tim của họ cận kề nhau. Khoảng cách giữa họ rất nhỏ... Rồi ngài lại tiếp tục : - Khi hai người ấy đã yêu nhau thật đậm đà thì họ không nói nữa, họ chỉ thì thầm, họ đã đến rất gần nhau. Cuối cùng ngay cả thì thầm cũng không cần thiết nữa, họ chỉ cần đưa mắt nhìn nhau, thế thôi! Vì qua ánh mắt đó họ đã biết đối phương nghĩ gì, muốn gì. Ngài kết luận : - Khi các con bàn cãi với nhau về một vấn đề, phải giữ trái tim của các con lúc nào cũng cận kề. Đừng bao giờ thốt ra điều gì khiến các con cảm thấy xa cách nhau... Nếu không thì có một ngày khoảng cách |