Tiểu sử Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Tâm
Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội PGVNTN Âu Châu kiêm Trụ Trì chùa Khánh Anh Pháp Quốc
 
Ngài thế danh là Lê Minh Tâm. Sinh ngày 18 tháng 1 năm 1940; nhằm ngày mồng 10 tháng 12 năm Kỷ Mão tại thôn Thanh Lương, Xã Chí Công, Huyện Tuy Phong, Tỉnh Bình Thuận, Việt Nam.

Thân phụ Ngài thế danh là Lê Minh Quang; bán thế xuất gia với pháp hiệu là Đại Đức Thích Minh Hữu. Thân mẫu là bà Hồ thị Lang pháp danh Nguyên Mỹ.

Năm 1949 Ngài xuất gia tại chùa Bửu Tích, Hòa Đa, Tỉnh Bình Thuận và được Bổn Sư phú cho pháp danh là Nguyên Cảnh.

Năm 1953 tu học tại Tăng Học Đường Nha Trang (Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang).

Năm 1956 thọ Sa Di giới và được y chỉ nơi Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và được phú cho Pháp Tự là Viên Dung, hiệu Minh Tâm.

Năm 1961-1962 tu học tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam.

Năm 1962-1967 Giảng sư GHPGVNTN tỉnh Phú Yên kiêm Giáo sư trung học đệ nhị cấp trường trung học Bồ Đề Tuy Hòa, Phú Yên. Ngài cùng chư Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Phúc Hộ, Hòa Thượng Thích Trí Thành lãnh đạo các phong trào đấu tranh tự do tôn giáo và nhân quyền tại tỉnh nhà.

Năm 1965-1967 làm Hiệu Trưởng trường trung học Bồ Đề Nguyên Thiều, Bình Định.

Năm 1967 thọ giới Tỳ Kheo và xuất dương sang Nhật Bản du học.

Từ năm 1967-1973 học và tốt nghiệp chương trình hậu đại học tại Đại Học Risso (Lập Chánh) ngành triết học Phật Giáo, Tokyo.

Từ năm 1968 đến năm 1973 Ngài làm Chi Bộ Trưởng Chi Bộ Giáo Hội PGVNTN tại Nhật.

Sau hiệp định Paris ký kết vào đầu năm 1973, Ngài vâng lệnh Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Tổng Thư Ký GHPGVNTN, sang Pháp để hoạt động với Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh.

Năm 1974 sáng lập Niệm Phật Đường Khánh Anh tại Arcueil, Pháp.

Năm 1977 chùa Khánh Anh chính thức được dời về trụ sở mới ở đường Henri Barbusse vùng Bagneux, phụ cận của Paris.

Ngày 19 tháng 2 năm 1979 lễ đặt đá xây dựng chánh điện chùa Khánh Anh ở Bagneux.

Năm 1983 nhân Đại Giới Đàn Thiện Hòa được tổ chức tại Phật Học Viện Quốc Tế Hoa Kỳ, Ngài được tấn phong lên hàng Giáo Phẩm Thượng Tọa.

Ngày 18/06/1995 lễ đặt đá xây dựng chùa Khánh Anh mới tại Evry.

Năm 1999 Ngài được Giáo Hội PGVN Thống Nhất Âu Châu tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa Thượng tại Na-Uy.

Cũng trong thời gian này Môn đồ Pháp Phái Liễu Quán đã Cung Thỉnh Ngài chức vụ Trưởng Môn đời thứ 10 tại hải ngoại.

Ngày 8/7/2011 tại thủ đô Columbo, Tích Lan, Ngài được Hội Đồng Tăng Già và chính quyền Tích Lan trao phần thưởng danh dự cao qúy của Quốc Gia cho những người có công mang Phật pháp đến các xứ Âu Mỹ.

Từ năm 2006 đến nay, Ngài là Phó Chủ Tịch của Hội Đồng Tăng Già Thế Giới (WBSC); trụ sở đặt tại Đài Loan.

Nhiệm kỳ hiện tại của năm 2013 nầy, Ngài là Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Phẩm Tối Cao Phật Giáo tại Pháp.

Ngài là người có công sáng lập ra Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất Âu Châu, Ngài là vị khai sáng và lãnh đạo Phật giáo VN các quốc gia tại Âu châu.

Cuối năm 2007 các Giáo Hội PGVNTN ở ngoại quốc gồm : Hoa Kỳ, Canada, Âu Châu và Úc Châu nhóm họp tại Sydney nhân khóa tu học Phật Pháp tại đây để tạo thành thế Liên Châu của các Giáo Hội và Cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm đảm nhiệm nhiệm kỳ đầu (2008-2010) với nhiệm vụ điều hợp các châu. Ngài cũng là một trong những thành viên thành lập nên GHPGVNTN Liên Châu.

Ngài cũng là người chủ xướng phong trào học Phật của chư Tăng Ni và Phật tử tại gia qua các Khóa Tu Học Phật Pháp tại chùa Khánh Anh (5 khóa) và 25 Khóa của Âu Châu.

Ngài là một hành giả tranh đấu cho nhân quyền và tự do tôn giáo không mệt mõi xuyên suốt cả cuộc đời của Ngài.

Trong các Đại Giới Đàn được tổ chức tại hải ngọai như Hoa Kỳ, Úc châu, Canada, Âu châu... Ngài thường được cung thỉnh vào các ngôi vị như Yết Ma, Giáo Thọ A Xà Lê cũng như Đàn Đầu Hòa thượng.

Sau Khoá Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 25 tổ chức tại thành phố Turku, Phần Lan Ngài đã nhập viện và các bác sĩ tại đây đã phát hiện Ngài bị bệnh tim và gan ở thời kỳ cuối; nên Ngài đã an nhiên xả báo thân thị tịch vào lúc 9:29 phút (giờ Pháp) ngày 8/8/2013; nhằm ngày mùng hai tháng 7 năm Quý Tỵ. Thế thọ 75 tuổi. Đạo Lạp 64 năm và 46 Tăng lạp.

Ngài thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 44 và Thiền Phái Liễu Quán đời thứ 10.

Nam Mô Tân Viên Tịch Tự Lâm Tế Chánh Tông Liễu Quán Pháp Phái Tứ Thập Tứ Thế, Khai sơn Khánh Anh Tự, húy thượng Nguyên hạ Cảnh, tự Viên Dung, hiệu Minh Tâm Giác Linh Hòa Thượng.

Giáo Hội Phật Giáo VNTN Âu Châu và Môn Đồ Pháp Quyến đồng phụng soạn.

BIOGRAPHIE DU GRAND PATRIARCHE THICH MINH TÂM

Président de la Congrégration Bouddhique Vietnamienne Unifiée en Europe

Président de l’Association Bouddhique Pagode Khanh Anh de Bagneux et d’Évry, France

Nom d’État Civil LÊ Minh Tâm.

Né le 18 Janvier 1940, année lunaire le 10/12/40 à Thanh Luong, Chi Công, Tuy Phong, Province de Ninh Thuân, Viet-Nam.

Nom d’état civil du Père (du Grand Patriarche) : LÊ Minh Quang, ordonné Moine Bouddhiste sous le nom Thích Minh Hữu.

Nom d’état civil de la Mère Hồ thị Lang, nom bouddhiste Nguyên Mỹ.

En 1949, entré dans l’ordre des Moines (Sangha) en la Pagode Bữu Tích, Bình Thuận Province sous le nom Thích Nguyên Cảnh.

En 1953, Etudiant à l’École des Moines de Nha Trang (Institut Bouddhique Hải Đức, Nhatrang) et à l’école laĩque.

En 1956, ordonné Novice (Sa di) par le 4ème Très Grand Patriarche Thích Huyền Quang, sous le nom bouddhiste Thích Viên Dung, Thích Minh Tâm.

1961-1962, Etudiant à l’Institut Bouddhiste Quảng Hương Già Lam 1965 Licencié en Lettres à l’Université de Saigon.

1962-1967, Maître de Conférence (de l’Église Bouddhiste Unifiée du Vietnam) à Phú Yên Province, Professeur au Lycée Bồ Đề de Tuy Hòa, province de Phú Yên.

1965-1967, Proviseur du Lycée Bồ Đề, Nguyên Thiều, Province de Bình Định.

En 1967, Ordonné Moine et poursuit ses études bouddhistes au Japon.

1967-1968, Etudiant à l’École de Langue Japonaise Kokksai, Tokyo.

1968-1973, Agrégé en Philosophie Bouddhique (Dr. en Philosophie) à l’Université Risso, Tokyo.

De 1968 à 1973, Élu président du Conseil Bouddhiste Vienamien Unifié au Japon par l’Église Bouddhiste Unifiée du Vietnam.

En 1973 après la Convention de Paris, sur l’ordre du 4ème Grand Patriarche, s’est rendu en France pour collaborer avec le Patriarche Thích Nhất Hạnh.

En 1974, Fondateur de la Pagode Khanh Anh à Arcueil, France.

En 1977, la Pagode est officiellement tranferrée à Bagneux (Avenue Henri Barbusse).

Le 19 Février, 1979, pose de la 1ère pierre pour la construction de l’autel central de Bagneux.

En 1983, à l’occasion de la création du Jury bouddhique Thien Hoa à l’Institut Bouddiste International aux États Unis de l’Amérique, promu Moine Supérieur (Thượng Tọa).

Le 18 Juin 1995, pose de la 1ère pierre pour la construction de la Pagode Khanh Anh d’Evry.

En 1999, promu Grand Patriarche à Oslo, Norvège par ordre de l’Église Bouddhiste Unifiée du Vietnam.

Durant la même année, est prié par le Conseil de la Branche Liau Quan d’assumer les fonctions de Chef de cette branche d’outre-mer, 10ème génération.

Le 8 Juillet 2011 à Colombo, Sri Lanka, reçu le Prix d’Honneur du Conseil Bouddhiste Mondial et du Gouvernement de Sri Lanka, aux personalités qui ont l’initiative de propager le Bouddhisme en Europe et Amérique.

De 2006 jusqu’à ce jour, Vice Président du Conseil Mondial des Sanghas Bouddhistes (WBSC), dont le siège est à Taiwan.

Le mandat actuel 2013 - Président du Conseil Supérieur des Religieux Bouddhistes de France.

Fondateur de la Congrégation Bouddhiste Vietnamienne Unifiée de l’Europe.

Premier initiateur d’enseignement bouddhiste pour les moines, les nonnes et les adeptes bouddhistes en France à la Pagode Khanh Anh de Bagneux pendant 5 ans avant d’organiser en tout 25 séminaires bouddhistes internationaux en Europe.

Très actif dans sa lutte anti-communiste contre la répression des droits de l’homme et la liberté religieuse.

Dans les grands Jurys bouddhistes d’outre-mer, comme en Amérique, Australie, Canada, Europe, il est prié de présider aux diverses places honorifiques et hiérarchiques des Grands Maîtres.

à la fin du 25ème Séminaire Bouddhiste en Europe à Turku, Finlande, il a été hospitalisé à Turku et les médecins ont découvert que son foie et son coeur atteignaient la dernière étape; il s’est éteint à 9:29h (heure de France) le 8/8/2013, soit le 2ème jour du 7ème mois lunaire, année du Serpent à l’âge de 75 ans (64 ans de vie religieuse dont 46 ans de vie moniale).

Il appartient à l’Ordre de Lâm Tế, Chánh Tông, Branche Liễu Quán 44 ème génération.

Biographie préparée par les membres officiels de la Congrégation Bouddhique Vietnamienne Unifiée en Europe et ses disciples.