Tết Nguyên Đán
và lịch sinh hoạt Phật giáo
liên hệ như thế nào ?
Nguyễn Phúc Bửu Tập
Nhân
ngày Tết Nguyên Đán, mọi gia đình Á Đông sẽ
làm lễ Phật và vui Tết. Ta thử tìm hiểu niên
lịch dùng trong sinh hoạt Phật giáo nguồn gốc
ở đâu, thuộc về hệ thống nào và ngày
Tết có phải là một ngày lễ Phật chăng ?
Vậy ta có thể xác quyết là
không thể có một niên lịch, hay là nói rộng hơn,
là một hệ thống tính thời gian riêng biệt
của đạo Phật. Tìm hiểu niên biểu Phật
giáo tức là đi tìm các thông lệ đã được
áp dụng trong các cộng đồngTănggiàngàyxưavề
cách thức để áp dụng thời biểu trong
năm để tu hành và tế lễ. Bài này sẽ không bàn
đến các ý niệm triết lý, siêu hình và hướng
linh về thời gian và không gian trong giáo lý nhà Phật.
Văn minh Ấn Độ
trước thời đức Phật gọi là văn
minh Vệ Đà của giống người Aryan
từ trung bộ châu Âu tràn xuống đồng bằng
sông Indus và sông Ganga
: tôn giáo Ấn Độ trước là đạo Bà La Môn.
Văn minh Vệ Đà và tôn giáo Bà La Môn dựa trên bốn
bộ kinh Vệ Đà căn bản, mà quan trọng
nhất là bộ kinh Rig Vệ Đà.
Rig Vệ Đà gồm có, theo lý thuyết, 1028 bài ca tán
tụng sức mạnh của tạo vật như
mặt trời, mưa, gió, sấm sét..., biến các sức
mạnh thiên nhiên này thành ra thần linh, và cầu xin
thần linh ban phúc cho giống người Aryan đang theo
đạo Bà La Môn. Đọc kỹ các bài ca chúc tụng
này, ta tìm lại rõ các nét chính trong tư tưởng, phong
tục và tập quán của giống người Aryan này.
Phu nhân Rhys Davids
(vợ
chồng giáo sư Rhys Davids, người Anh,
được nhìn nhận đã đóng góp rất
nhiều trong công trình khảo cứu văn minh Ấn
Độ và đạo Phật) đã phân
tích kỹ quan niệm về niên lịch của người
Aryan Ấn Độ.
Thời gian được tính bằng ba đơn vị
: năm, tháng và ngày. Trong Rig
Veda quyển 1 đã thấy ghi rõ cách tính ngày tháng. Mỗi
năm (sam vachara) gồm
có 12 tháng (masa), mỗi
tháng có 60 đơn vị [ban
ngày kể là một đơn vị; đêm kể là
một đơn vị (rantinvida); hai
đơn vị góp lại thành một ngày].
Mỗi năm còn chia ra mùa (utu) và
vì thời gian tính theo hai hệ thống mặt
trời
(dương lịch) và mặt
trăng (âm lịch)
bị so le, không theo sát nhau được, nên đã tính
phải có một tháng "nhuận",
gọi là "tháng
sinh sau" trong hệ thống âm.
Thời đó giai cấp Bà
La Môn ngự trị đời sống
tinh thần và vật chất của dân chúng. Niên lịch
liên hệ tới việc cúng tế không để tiết
lộ ra khỏi giai cấp giáo sĩ. Tuy vậy, vì niên
lịch Vệ Đà cũng đem dùng trong dân gian, nên
nhà Phật chắc chắn đã dựa theo đó mà
thiết kế mọi sinh hoạt trong cộng đồng
Tăng già.
Trong số kinh điển khổng
lồ của đạo Phật (chỉ nói tới văn
hệ Pali), bà Rhys Davids không tìm được
phần nào đặc biệt chuyên chú về niên lịch,
và chỉ rút ra được đây đó vài đoạn
nói về niên biểu, đem chắp lại để tìm
hiểu ý niệm thời gian trong đạo Phật.
Để chứng minh là đức Phật đã áp
dụng và đã có sửa đổi quan niệm niên
lịch Vệ Đà, bà Rhys Davids dẫn hai sự kiện.
Thứ nhất là một vị đệ tử thân
cận của đức Phật, Kumara
Kassapa, trong Trường
Bộ Kinh (Dighanikaya), đã
thuật lại là đức Phật đã chấp
nhận cách phân chia thời gian áp dụng và dẫn giải
trong kinh Rig Veda. Thứ hai là trong Tăng Chi
Bộ kinh (Anguttaranikaya),
bộ kinh quan trọng hàng thứ tư trong năm bộ
kinh lớn của văn hệ Pali, cũng có nhắc
lại cách giải thích niên lịch của đức
Phật, không những tính theo mặt
trời, mặt trăng mà còn tính theo các hành tinh.
Nét nhận xét được rõ là niên lịch
Phật giáo có khuynh hướng theo Âm lịch nặng
hơn, chứng cớ là đức
Phật đã dùng thêm ngày trăng tròn
(addhamassa)
giữa tháng,
cắt tháng ra làm 2 đoạn, và như vậy đơn
vị thời gian từ ngắn đến dài sẽ là : ngày,
nửa tháng, mùa, năm.
Vào thời kỳ nguyên thủy,
đạo Phật chú trọng nhất là việc tổ
chức đời sống Tăng già, và mục đích
thiết thực của niên lịch là để lập
thời khoá biểu áp dụng cho Tăng chúng trong cộng
đồng. Ngày chia làm 2 đơn vị
: sáng và tối (ratindival),
cốt để định thời khắc hai bữa
ăn của người tu sĩ. Nhưng theo quy
ước chung áp dụng ngoài đời, hai đơn
vị sáng và tối phải nhập làm một để
gọi là ngày. Phân tích hơn nữa, ngày
sáng chia làm ba đoạn (ta cứ gọi
là khắc), và đêm tối
chia làm ba canh (yama). Khi trời âm u
thì lấy Kim tinh là chuẩn
hiệu. Đêm bắt đầu từ khi hết thấy
mặt trời. Trên thực tế, chỉ trừ thời
khắc giữa trưa (đúng ngọ),
để quy định giới hạn bữa ăn
của người xuất gia, ý niệm thời gian trong
ngày được áp dụng khá lơi lỏng. Trong các chùa
Nguyên Thủy, từ xa xưa cho đến bây giờ,
người ta vẫn lấy thời khóa biểu của
đức Phật làm mẫu mực. Sáng bắt
đầu ngày mới, đức Phật tắm gội,
choàng áo và cầm bình bát đi khất thực; gần
trưa về chia bữa ăn với đệ tử;
buổi chiều ở trong tịnh xá thiền định
và làm việc.
Giờ quan trọng nhất trong ngày
là lúc giữa trưa (ta gọi là ngọ; văn tự Pali
majjhanha), được đánh dấu
bằng cách đo ngón tay, bóng ngả về phía hữu
một đốt và quay sang phía tả một đốt.
Vì lẽ đó mà ngày có ba khắc
: buổi sáng, giờ
ngọ và buổi chiều
(aruna,
majjhanha, sayamha). Đức Phật còn dùng
một đơn vị lớn hơn ngày gọi là tuần
(sattaha),
mà trước đó, trong kinh Vệ Đà không bao giờ
nói tới. Sahatta không có nghĩa là tuần lễ bảy
ngày như ta quan niệm ngày nay, mà bất cứ số
lượng bảy ngày nào góp chung lại với nhau trong
lịch trình sinh hoạt Tăng già thời nguyên thủy.
Tháng tính làm hai đơn vị
: đơn vị một bắt đầu từ ngày
trăng tròn, đơn vị hai bắt
đầu từ ngày không trăng.
Lúc đức Phật còn tại thế, khi cộng
đồng Tăng già đã phát triển mạnh trên lưu
vực sông Hằng Hà, hai ngày đầu kỳ bán nguyệt
là hai buổi lễ lớn của cộng đồng. Tăng
già sống trong viện hay đi hoạt động ở
ngoài đến hai ngày đó phải tựu họp
để đọc bổn Luật Kinh
Pratimoka (tức là bổn liệt kê 227
điều luật của người xuất gia; về
sau môn phái Đại thừa tăng lên 250 điều
luật, môn phái Tây Tạng 253 điều).
Đến bây giờ, trong các chùa
ở Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, theo Phật giáo
Nguyên Thủy thuần túy, luật lệ này vẫn thông
dụng.
Trong cộng đồng Tăng già
thời nguyên thủy, mỗi năm
được chia làm bốn mùa. Ba mùa chánh
: mùa nắng (ginshal),
mùa mưa (vassa) và mùa
gió (hemanta); mỗi
mùa kéo dài bốn tháng. Cuối mùa mưa lấy
một tháng, gọi là tháng Serada
làm một mùa tương đương với mùa Thu
của ta bây giờ. Tại Ấn Độ, vào mùa Serada, "khí trời
rất trong sáng nên mặt trời hiện rõ, đừng
nhìn lên trời mà hại mắt" (Trường
Bộ kinh, Dighanikaya).
Dưới thời đức
Phật, cách thức phân chia ba mùa không nhất định,
tùy theo hoàn cảnh trong năm, nhưng nói chung, mùa gió
lạnh Hemanta đi trước đầu năm, kế
theo là mùa nắng gimha, và mùa mưa vassa. Vassa
kể như là mùa quan trọng nhất vì tu sĩ
"vào
hạ" lúc này. Vào hạ là biến
cố quan trọng nhất trong năm, trong đời
sống người đi tu, mọi chi tiết đều
được định rõ trong Luật Kinh Vinaya.
Để điều chỉnh thời gian luân chuyển so
le giữa mặt trăng và mặt trời, tháng
nhuận thường để vào đầu mùa mưa
vassa và do chính đức Phật
quyết định và công bố (về sau, do hệ thống
chỉ đạo của Tăng già).
Trong Luật Kinh (Pali tạng) cũng
ghi rõ là đức Phật đến thành Vesali, (nằm trên vĩ
tuyến 26, tương đương ở
xứ ta vào vùng trên Cao Bắc Lạng, rất lạnh)
sống vào những tuần lễ giá lạnh nhất trong
năm hầu thí nghiệm xem người tu sĩ cần
bao nhiêu y phục vào mùa lạnh, để ghi vào Luật
kinh.
Ngoài đơn vị tháng, mùa,
năm, đức Phật cũng đã nói đến các
đơn vị thời gian dài hơn như thập niên vassa
dasa (mười năm),
thế kỷ vassa satam
(trăm
năm). Vassa satam tượng trưng
đời sống của một kiếp người,
như dân gian ta thường nói "trăm năm trong cõi
người ta", hay "ba vạn sáu
nghìn ngày". Sau thế kỷ, nhà Phật
dùng một đơn vị gọi là Kapa (Anh : Aeon; Pháp : Eon),
chỉ thiên thiên vạn vạn niên,
một số lượng vĩ đại ngoài sức
đếm. Ví dụ một hôm có người đệ
tử hỏi đức Phật là Kapa dài bao nhiêu năm,
Ngài trả lời (luôn luôn đức Phật trả lời
bằng tỉ dụ và so sánh) : "Nếu bây
giờ ta có một khối núi đá mỗi bề dài
bốn trượng, không chỗ nào sứt mẻ. Và bây
giờ cứ mỗi trăm năm có một người
cầm một tấm vải mềm đến chùi trên chóp
khối đá. Ngọn núi kia sẽ tiêu mòn hết
trước khi một Kapa chấm dứt".
Ý đức Phật nói là Kapa chỉ định một
thời gian dài vô tận - một đoạn khác trong kinh,
đức Phật cũng nói là mỗi Kapa có thể
tạo ra một đức Phật, hàm ý là phải khổ
công tu học lắm mới được thành chánh
quả.
Bây giờ ta trở lại tìm
hiểu các chi tiết nhỏ của thời gian dùng trong
giáo lý đức Phật. Ngày chia ra làm đơn vị
nhỏ. Trong Tăng Chi Bộ kinh đã dẫn, có
đoạn : "Như
nước trong nguồn chảy quanh co, lôi kéo tất
cả theo dòng, không bao giờ ngừng một lúc (khana), hoặc
một khắc (layo), hoặc một giây (muhutto),
và đấy cũng là đời sống của con
người". Pháp sư Huyền Trang sang
Ấn Độ thỉnh kinh hồi thế kỷ thứ
7, đã giải thích rõ ràng ý niệm thời gian nhỏ dùng
trong đạo Phật : "Đơn vị thời gian
nhỏ nhất (trong kinh) gọi là t'sana (còn viết
là Kshana) là sát na; 120 sát na làm thành một đại sát na (tak
shana); 60 đại sát na làm thành một la fo (lava); 30 lava
làm thành một muhurta; năm muhurta làm thành một kala và sáu
kala làm thành một ngày".
Ta
mặc nhiên đồng ý là các chi tiết vừa kể trên
ngày nay chỉ còn giá trị lịch sử. Ta thử tìm
hiểu các điểm thiết thực hơn, như ngày
đầu tháng, đầu năm... để ăn
Tết !
Tháng bắt đầu ngày nào ?
Như trên đã nói, Phật lịch thiên về
mặt trăng và trong hai bán
nguyệt (một, bắt đầu từ
ngày không trăng; hai, bắt đầu từ ngày trăng
tròn), thường vẫn kể bán
nguyệt bắt đầu với đêm trời tối
đi trước. Như vậy là tháng
bắt đầu với ngày không trăng, tương
đương với ngày mồng một Âm lịch
của chúng ta vẫn tính thời bây giờ.
Câu hỏi thứ hai là năm
bắt đầu với tháng nào ? Ý niệm tháng là một
phần cấu tạo của mùa thường
được nhắc trong kinh, như "tháng
đầu mùa lạnh", "tháng cuối
mùa mưa". Cũng có chỗ trong kinh
nhắc đến tên tháng như tháng Asahi, tháng Kattila,
nhưng không hề chỉ định một tháng
đầu năm.
Bà Rhys Davids dẫn chứng một
đoạn kinh Samannaphala Sutta
nói về vua Ajattasatu (A Xà Thế), đương
thời với đức Phật, và giải thích là ngày
đó người ta dùng tháng Savana (giữa tháng 6 qua giữa tháng
7 Dương lịch ngày nay) làm tháng
đầu năm. Nhiều cuộc biên khảo
mới sau này chứng minh là bà Rhys Davids nhầm. Trongmộtbổn
luận Aghidhanapitaka chép vào thế kỷ
thứ 13 tại Tích Lan, người ta
tìm được bổn danh sách hoàn hảo đủ 12
tháng niên lịch Phật. Năm chia làm 12 tháng, bắt
đầu là tháng Citta (giữa tháng 2 qua
giữa tháng 3) và tháng quen thuộc với chúng
ta là tháng Visakha (giữa tháng 3
tới giữa tháng 4). Đại
hội kiết tập Phật giáo thế giới lần
thứ 6 họp tại Miến Điện năm 1954
lấy ngày trăng tròn tháng Visakha làm ngày lễ quan trọng
nhất của đạo Phật,
kỷ niệm một ngày ba lễ lớn : Phật
Thích Ca đản sanh, Phật Thích Ca thành đạo và
Phật Thích Ca nhập Nết bàn. Ngày nay
hầu hết các cộng đồng Phật giáo trên trái
đất đều thuận hiệp với quyết
định trên. (Phật
giáo Việt Nam đã đổi ngày mùng 8 tháng Tư sang ngày
Rằm tháng Tư làm ngày Đản sanh của đức
Phật, kể từ thời điểm này).
Như vậy, ta buộc phải
nhìn nhận là trong thời kỳ Nguyên thủy, đạo
Phật chỉ chú trọng vào lề lối tu hành, và không
để ý tới những điều trong đời
sống như hội hè đình đám. Các tục lệ
truyền thống (đối với chúng ta ngày nay) như
đi chùa hái lộc, như lễ Phật đêm giao
thừa và ngày Tết, hầu như không có ý nghĩa thích
nghi với giáo lý. Có
thể như vậy được chăng ?
Tìm hiểu lịch Phật, ta phải
sưu tầm kinh điển; bây giờ muốn trả
lời thỏa đáng câu hỏi vừa đặt ra, ta
phải tạm gác kinh điển và nhìn vào lịch sử
văn hóa.
Năm 1939,
để kỷ niệm 300 năm thành lập Viện Đại Học Havard (Hoa Kỳ),
giáo sư Hồ Thích, là người được xem
như là lý thuyết gia của cuộc cách mệnh Tam Dân
Trung Hoa, được mời đến đọc
một bài diễn văn gợi ý cho giới trí thức,
nhan đề là "Nước
Ấn Độ Chinh Phục Trung Hoa". Ngày đó, vừa sáng chói nền văn
minh vật chất Tây phương, và nước Trung Hoa
đang bị chìm đắm trong quên lãng, đang bị
hiếp đáp đủ bề từ tinh thần
đến vật chất, bác sĩ Hồ Thích là
người có tư tưởng hướng về phát
triển, đóng khung những nguyên tắc tu, tề,
trị, bình. Ông phân tích các lý do chậm tiến của
người Trung Hoa : đáng lẽ xã hội Trung Hoa
phải sáng ngời vì trào lưu phát triển mới
đang dựa vào cơ khí kỹ thuật, mà cá tính Trung Hoa
chính lại thiên về hiện thực, thuận tiện
cho phát triển. Và ông nêu lên những điểm mâu
thuẩn giữa đạo Phật chuộng xuất
thế, xa những mối vướng lụy với
cuộc đời, với thực chất phát triển là
đời sống hiện thực.
May thay cho xã
hội Trung Hoa sau một nghìn năm cực thịnh lúc
đạo Phật mới du nhập Trung Hoa, sang
đời Tống, các tư tuỏng và sinh hoạt
truyền thống của Trung Hoa lại thắng thế.
Người Trung Hoa đã chấp nhận nhiệt thành,
nhưng cũng quật cường biến đổi đạo Phật
thành một tôn giáo thích hợp với đời sống
của người Trung Hoa hơn.
Bốn
mươi năm sau, cũng tại một trung tâm
đại học lớn của Hoa Kỳ, đại
học Yale, một nhóm học giả do giáo sư Kenneth Chen dẫn đầu, đã trở lại
đề tài này với một nhãn quang mới lạ
hơn. Thay vì quan niệm như bác sĩ Hồ Thích là
đạo Phật từ Ấn Độ đã chinh
phục Trung Hoa (The Indianization of
China by Buddhism),
nhóm tư tưởng gia này đã đặt vấn
đề sát với sự thật hơn là "Trung Hoa đã biến đổi đạo
Phật" (The Chinese
Transformation of Buddhism).
Đạo
Phật, như là một hạt giống mầu nhiệm,
đi vào Trung Hoa như là một môi sinh vừa súc tích
vừa hãm hại. Súc tích vô cùng, làm nảy nở
đạo của Phật Thích Ca trên một nửa
địa cầu và nhân loại ngày đó; đồng
thời cũng hãm hại vì đạo Phật đã
phải thay đổi nhiều trong giáo lý căn bản
để phù hợp với tập quán và phát triển
tại Trung Hoa cũng như các nước láng giềng :
Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam...
Bởi
lẽ đó mà tại các quốc gia theo Phật giáo
Đại thừa, giữa nếp sống xã hội và các
sinh hoạt tôn giáo chịu ảnh hưởng lẫn nhau,
và ngày Tết
được đồng hóa trở thành một ngày
lễ Phật quan trọng. Tại Trung Hoa và Việt Nam lại còn
có một truyền thống đã lâu đời (trước đời Đường, thế
kỷ thứ 7)
làm lễ Phật
Thượng Nguyên vào ngày Rằm tháng Giêng (Lễ Phật
quanh năm không bằng ngày Rằm tháng Giêng). Ngày trước bên Trung Hoa, lễ này
còn gọi là "Hội Hoa Đăng", kéo
dài ba ngày từ 14
đến 16 tháng Giêng.
Tại chùa và mỗi tư gia đều thắp đèn và
dân chúng cầm đèn đi lại suốt đêm. Giáo
sư Kenneth Chen, dẫn sách "Đường
lục điển" kể lại ngày đó, dưới
đời Đường, các chùa rất giàu có, nên cấp
dầu cho mỗi tư gia để làm hội đốt
đèn, lễ Phật.
Như
vậy, các buổi lễ Phật như ngày Tết Nguyên Đán và Hội Hoa
Đăng không còn riêng của những người trong
Tăng đoàn, mà là của đại chúng. Người cao sang, kẻ bần cùng;
người giàu, kẻ khó; người thuộc quý
tộc, kẻ trong Tăng giới và đám dân gian
đại chúng, tất cả hòa đồng vào ý niệm
đoàn kết và hỗ trợ, chung một lòng tin.
Ngày xưa
tại Trung Hoa, lễ lạc được thích nghi phù
hợp với nếp sống của từng giai cấp xã
hội. Các buổi lễ cúng tế theo đạo
Khổng trong miếu đường, ngoài phủ thất rất nhiều nghi vệ và đầy
đủ chi tiết phiền toái, đám dân gian không
hiểu nổi.
Mặt khác, các buổi lễ theo đạo Lão Tử đã biến thành tà thuật, bùa phép chỉ
gây thêm sợ hãi cho đám bình dân. Chỉ có lễ Phật
trong tinh thần hỷ xả, an vui là thích hợp với
nhu cầu hướng thiện, hướng lạc
của đại chúng.
Vì lẽ đó mà ta hiểu Tết Nguyên Đán, từ lâu đã được người Việt Nam xem như là một ngày lễ có nhiều tính cách quan trọng của Phật giáo..