Tại sao lại luật tứ phần
T.T. Thích Nhất Chân
Lược dẫn
Khoảng ba trăm năm sau khi
Phật nhập diệt, Phật giáo đi vào giai
đoạn thường được gọi là
"bộ phái
Phật giáo," tức giai đoạn mà
Phật giáo bị phân hóa ra thành nhiều tông phái. Giai
đoạn này kéo dài từ 300 năm trước công nguyên
cho đến khoảng năm 50 công nguyên, phần lớn
là do sự dị biệt ý kiến trong khi giải thích giáo
pháp của đức Phật mà ra. Sự phân phái ấy
đã ảnh hưởng đến toàn diện mọi
lãnh vực học hỏi trong Đạo Phật. Tổng
quát Đạo Phật có ba lãnh vực kiến thức
cần phải học, đó là Kinh, Luật và Luận,
gọi chung là Tam Tạng. Khi phân thành nhiều tông, thời
Kinh Luật Luận của mỗi tông cũng bị
ảnh hưởng bởi sự dị biệt ý kiến
tông phái mà thành khác nhau. Thực ra sự khác biệt ấy
chỉ được thấy một cách rõ ràng trong lãnh
vực Luận Tạng, vì nơi ấy chính là một
diễn đàn tự do cho các thành phần ưu tú trong
Đạo Phật, tức các Luận sư, giảng
giải và đóng góp ý kiến về ý nghĩa hoàn hảo
nhất của Pháp Phật vốn được gói
trọn trong Kinh tạng và Luật tạng. Trong khi đóng
góp ý kiến như thế, họ tranh luận với nhau,
và kết quả không phải là ai đúng hơn, mà là
nhiều quan điểm khác nhau được thành lập
để trở thành các "tông nghĩa,"
hay "tông
thú," mà từ đó lập thành các
tông phái.
Mục tiêu Phật chế Giới
Nhưng
Luật lại khác, vì ngoài Phật ra không ai được
quyền chế lập, và cũng không ai đủ
quyền sửa đổi bất cứ gì, dù chỉ là
những điểm tạp toái. Không những thế
mọi người còn phải tôn trọng tuân thủ
tuyệt đối, vi phạm tức có nghĩa là
"đứng ra ngoài," không còn tư cách một đệ
tử Phật nữa. Đó là ý nghĩa căn bản
của Luật, dù là luật thế gian hay ngoại
đạo đi nữa.
Lại
nữa, đức Phật chế Luật chính yếu
nhằm các mục tiêu như sau :
(1) Tăng
được hòa hợp và tăng trưởng hưng
thịnh.
(2) Điều
phục chúng sinh, đưa họ vào Đạo.
(3) Dứt
trừ phiền não cho cá nhân người tu Đạo.
(4) Chính pháp cửu
trụ.
Các mục tiêu này
được thể hiện qua "thập
cú nghĩa"
mà mỗi phen kết giới Ngài đều có lập
lại : Nhờ Tăng hòa hợp nên an lạc và hoan
hỉ. An lạc hoan hỉ nên Tăng lành mạnh, Tăng
lành mạnh thời nhiếp phục được chúng
sinh nhập đạo, đồng thời cá nhân mỗi
vị tăng đều được tinh tiến
dứt trừ hữu lậu. Tăng tu tập thành
đạt như thế ắt chính Pháp sẽ vững
mạnh trường tồn. Qua đó sự hòa hợp
của Tăng là điều căn bản nhất cần
phải có để cho chân lý của Đạo Phật
được hiện hữu trong thế gian này, và có
thế thì mọi ý nghĩa lợi lạc hữu tình và
thành tựu giải thoát cho chính mình của Đạo
mới hiện hành và thành quả được.
Tầm mức quan trọng của Giới
Luật
Tóm lại, nếu
đức Phật không chế Luật, thì một khi
Tăng phân hóa rồi, Tăng sẽ bị chia chẻ luôn
thành các nhóm nhỏ, chúng sinh và Phật Pháp sẽ không có
nơi y cứ vững chắc nữa, thế nên sự
tổn lợi và mai một chắc chắn sẽ xảy
ra. Đức Phật đưa ra ví dụ các đóa hoa
bỏ trên bàn bị gió thổi bay tứ tán hết, và nếu
các đóa hoa được xỏ lại với nhau, thì
gió không thổi tán đi được. Giới Luật
chính là sợi dây nối kết các đóa hoa, tức các
đệ tử Phật, lại với nhau để cho
Phật Pháp được cửu trụ, chúng sinh
được lợi lạc vậy.
Sự phân phái có
thể vẫn chia Tăng ra thành vùng, thành địa
phương, song trên phương diện sinh hoạt
tập thể với nhau, đường lối kỷ
cương của Tăng đoàn, niềm tin, tư cách đạo
đức, đối xử, ăn mặc, cách sống
trong sinh hoạt hàng ngày, Tăng đoàn vẫn thống
nhất và hòa hợp một vị, không phân biệt tông phái
hay địa phương. Trong Đạo Phật,
người ta không thể vì tông phái mà từ chối
một người khác tông không cho tham dự vào các sinh
hoạt tập thể, không cho họ được
hưởng phần các lợi dưỡng của Tăng
chúng. Vì các sinh hoạt và lợi dưỡng này là thuộc
về lãnh vực Giới Luật, chứ không thuộc
về đường hướng của tông phái. Thế
nên có khác tông phái đi nữa, tăng chúng vẫn hòa
hợp được với nhau trong đời sống
sinh hoạt tập thể vậy. Tăng được
quy định bởi Giới Luật chứ không bởi
tông phái. Vì vậy, mặc cho các tông phái cứ tự do phát
triển theo các khuynh hướng diễn giải sai khác
về Kinh Tạng, song vì Giới Luật là một nên
Đạo Phật, mà hiện thân là Tăng đoàn, không vì
thế mà bị tổn hại hay chia rẽ chút gì, trái
lại còn trở nên phong phú và phát triển rộng lớn
hơn nữa. Do đó phân thành tông phái không hề có
nghĩa là "phá Tăng," bởi vì "nề
nếp" của
Tăng, mà hiện thân là Giới Luật, không hề bị
phân phá hay phân rẽ. Chỉ khi một quy củ mới
được đặt ra để thay thế vào và
không chấp nhận Giới Luật xưa nay của
Phật nữa, thì mới đúng nghĩa là phá Tăng,
như trường hợp Đề Bà Đạt Đa
đặt ra 5 pháp làm quỹ phạm cho đời sống
Tăng đoàn, thì khi ấy Tăng luân mới bị phá,
tức Tăng bị chia rẽ hoàn toàn. Qua đó, chúng ta có
thể nhận định ra được tầm quan
trọng của Luật Tạng đến mức nào trong
sự trường tồn của Đạo Phật
vậy.
Lý do có nhiều Luật bản khác nhau
Giới Luật
như thế phải luôn luôn thống nhất làm một.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà trong Đạo Phật
chỉ có một bản Giới Luật duy nhất. Do từ
nguyên thủy, sự truyền Đạo hoàn toàn là khẩu
truyền, lại có thể chỉ một pháp thôi mà
đức Phật thuyết nhiều lần khác nhau cho
nhiều người khác nhau, và chắc chắn rằng
không phải lần nào cũng giống in như lần nào,
thế nên những người nghe truyền lại luôn
luôn sẽ có sự xê xích ít nhiều. Vì vậy tuy là một
Giới Luật của Phật chế định, song
vẫn có nhiều bản Giới Luật với nhiều
điểm sai khác nhau. Điều này không có gì quan
trọng, bởi vì nội dung và đường
hướng ý nghĩa chính của các Luật bản ấy
vẫn hoàn toàn thống nhất. Chỉ có đến giai
đoạn phân phái về sau này, không ít thì nhiều các
Luật bản sai khác ấy lại do ảnh hưởng
thêm khuynh hướng tông phái mà có thêm các sự sai khác
nữa. Song các sự sai khác này cũng chỉ phản
ảnh lên khuynh hướng giải thích về Pháp nghĩa
và đường hướng nhận định về
Phật Pháp của tông phái, chứ không ảnh hưởng
gì hết từ hình thức đến nội dung và tinh
thần của Giới Luật xưa nay.
Thực vậy, ngay
cả đến khi Đại Thừa phát triển
tại Ấn Độ, không những Kinh và Luận
Tạng của Đại Thừa hoàn toàn khác hẳn
với Kinh và Luận Tạng nguyên thủy được
hình thành qua giai đoạn bộ phái, Đại Thừa
còn có cả Bồ Tát Luật Tạng riêng rẽ. Song
phải hiểu là Bồ Tát Luật Tạng không hề thay
thế chỗ hay hủy bỏ đi Luật Tạng nguyên
thủy ấy, mà chỉ là phần thêm vào cho tương
ưng với sự thực hành Bồ Tát Đạo.
Thế nên hình thức sinh hoạt của Tăng đoàn
vẫn không hề bị biến thái hay thay đổi gì
cả.
Chỉ khi
Đại Thừa bắt rễ vào mảnh đất
Trung Hoa và mạnh mẽ độc lập phát triển muôn
mặt và trở nên "độc
tôn" tại đây,
thời lúc ấy hình thức sinh hoạt, ăn ở, cách
phục sức .v..v... của tăng chúng mới không còn
giữ đúng vẻ nguyên thủy xưa nay như bên
Ấn Độ nữa. Hình thức tuy không còn là bao, song
truyền thừa lại tinh thần Đại Thừa của
Ấn Độ, Phật giáo Trung Hoa vẫn hoàn toàn tôn
trọng và phụng trì Luật Tạng nguyên thủy,
vẫn coi đó là nền tảng, là quỹ phạm cho
đời sống cá nhân tăng lẫn sinh hoạt Tăng
đoàn.
Các Luật bản khác
nhau :
Vấn
đề của Phật giáo
Trung
Hoa
Song vấn
đề là không hề có một bộ Luật nguyên
thủy thống nhất nào hết cho Phật giáo Trung Hoa
tuân hành, mà lại có một lúc nhiều Luật bản sai
khác nhau được hình thành vào giai đọan bộ
phái sau này theo chiều hướng tông phái. Vậy phải
đối xử ra sao đây ? Chọn bộ luật nào
đây ? Nếu sử dụng hết thì làm nặng nề
cho người học, khó đưa lại
được sự thống nhất trong sinh hoạt
tăng chúng, dễ làm phát sinh các tranh cãi không lối thoát.
Nếu phải chọn một bộ thôi, thì chọn ra sao
? Chọn theo tiêu chuẩn thế nào ? Đó là tất
cả vấn đề của Phật giáo Trung Hoa
đối trước sự hành trì Giới Luật.
Tổng cộng
trước sau, Trung Hoa đón nhận vào 5 bộ Quảng
Luật được truyền dịch sang Hán ngữ,
phản ảnh lên sự phân phái trong giai đoạn bộ
phái Phật giáo. Năm bộ ấy theo thứ tự
thời gian được truyền dịch vào trung Hoa là :
(1) Thập
Tụng Luật thuộc bộ phái Tát Bà Đa,
được dịch ra vào năm 405.
(2) Tứ Phần
Luật thuộc bộ phái Đàm Vô Đức,
được dịch ra vào năm 413.
(3) Ma Ha Tăng
Kỳ Luật thuộc Đại Chúng Bộ, dịch ra
vào năm 418.
(4) Ngũ Phần
Luật thuộc Hóa Địa Bộ, dịch ra vào năm
423.
(5) Căn Bổn
Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Gia,
dịch ra vào năm 711.
Trong 5 bộ ấy
thì bộ cuối cùng dịch ra trễ hơn các bộ kia
đến cả 3 thế kỷ, thế nên khi bộ này ra
đời, thì vấn đề tuyển trạch Luật
bộ để hành trì đã được giải
quyết đâu đó rồi, sự tu tập giới
luật tại Trung Hoa đã hình thành cả một
truyền thống vững chắc rồi. Thế nên nói đến
việc tuyển trạch Luật bộ để khai
mở ra truyền thống hành trì giới luật trong
Phật giáo Trung Hoa thì chỉ kể có 4 bộ đầu.
Và trong 4 bộ ấy thì Tứ Phần Luật đã
được các Luật sư Trung Hoa thời ấy coi
là đủ tiêu chuẩn để thích ứng với
Phật giáo Trung Hoa hơn hết. Tiêu chuẩn ấy là tiêu
chuẩn gì ?
Phán giáo và tiêu chuẩn để tuyển
chọn
Dĩ nhiên một khi
Đại Thừa Phật giáo được phát triển
và hoàn toàn thành công tại Trung Hoa một cách vô cùng mỹ
mãn, thì mọi kiến giải, mọi khuynh hướng tu
trì, đều phải tương ưng với "tinh thần" Đại Thừa thì mới đủ điều
kiện để đứng vững và phát triển trong
lòng Phật giáo Trung Hoa. Nếu không khế hợp với
Đại Thừa thì tự động sẽ bị
loại ra khỏi sự quan tâm của mọi
người. Tuy rằng Đại Thừa chấp
nhận hết mọi Pháp của Phật bất kể là
Tiểu Thừa hay Nguyên Thủy, song các pháp ấy hoặc
chỉ được coi như phương tiện
phụ trợ hoặc phải được nhận
định và luận giải theo chiều hướng
của chân lý Đại Thừa. Đại Thừa
trở thành tiêu chuẩn để nhận định và
phán đoán mọi lãnh vực của Phật Pháp.
Trên cơ sở tiêu
chuẩn Đại Thừa ấy, các Luật sư Trung
Hoa thực hiện công cuộc "phán
giáo" đối
với 4 bộ Luật trên. Tuy Thập Tụng Luật
được dịch ra sớm nhất và lại do pháp
sư lừng danh Cưu Ma La Thập hợp dịch
với Phất Nhã Đa La, nên sự hành trì bộ Luật
ấy không thể nào lại không phổ biến, song chính
Ma Ha Tăng Kỳ Luật mới là bộ Luật
được phụng hành phổ thông hơn hết trong
khoảng thế kỷ thứ 5 ấy. Như Huệ Quang
luật sư (468-573), người đầu tiên mở
đầu phong cách giải thích Tứ Phần Luật thành
chương sớ đâu đó rành mạch rõ ràng, thuở đầu
cũng tinh nghiên và giảng giải về Luật Tăng
Kỳ. Khi Trí Thủ luật sư
(567-635) vào
Trường An để hoằng dương Tứ
Phần, Sử ghi các tự viện nơi đó
đều chuyên phụng trì Luật Tăng Kỳ ..v..v...
Song khởi
đầu từ Huệ Quang luật sư, khi ngài phán
Tứ Phần Luật thuộc về Đại Thừa,
và đã viết sớ giải về bộ Luật này
để hoằng dương, nhờ vào uy tín quá mạnh
mẽ của ngài, vừa là Quốc Thống của
triều Bắc Ngụy, vừa là Tổ sư của
Địa Luận Tông thuộc Nam Đạo Phái, thế
nên phải chăng là Tứ Phần Luật đã có ngay một
thế đứng vững chắc. Sau đó, nhờ vào
thiên tài của Trí Thủ luật sư qua sự luận
giải và tạo sớ về Luật Tứ Phần
đã nhiếp phục hết mọi giới danh tăng
trong Trường An quy tâm về Tứ Phần, Sử ghi
suốt ba mươi năm trời qua lại đất
Kinh Sư không một ai đương cự nổi ngài.
Nhưng phải đến thời Đạo Tuyên luật
tổ (596-667),
môn đồ của Trí Thủ luật sư, mọi phán
định và giải thích về "vị
thế" của
Luật Tứ Phần trong Đại Thừa Phật giáo
mới được quyết trạch dứt khoát và phân
minh. Từ đó Tứ Phần Luật được
đặt lên địa vị tột đỉnh và không
một bộ Luật nào có thể vượt qua hay
lật đổ nổi nữa. (Riêng
bộ Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu
Bộ Tỳ Nại Gia, trong thời hiện đại,
Hoằng Nhất luật sư lúc đầu cũng
rất tâm đắc với sự nghiên cứu tinh
tường của mình về bộ Luật này, và
định ra sức hoằng hóa. Nhưng sau khi duyệt
xét lại các bộ sớ giải của Đạo Tuyên
luật tổ về Luật Tứ Phần, ngài đã
đổi ý hoàn toàn, quy tâm sám hối và phát nguyện
suốt đời sẽ hoằng dương Luật
Tứ Phần trở lại.)
Sự phán giáo chung cục của Tổ
Đạo Tuyên
Không giống như
các bộ Luật kia vẫn bị coi là hoàn toàn thuộc
về Tiểu Thừa Giáo, Luật Tứ Phần
được Huệ Quang luật sư phán là Đại
Thừa Giáo. Song đến Đạo Tuyên luật tổ
lại không chấp nhận như vậy : Nếu Tứ
Phần Luật là Đại Thừa, thì Phạm Võng
Bồ Tát Giới là gì đây ? Làm sao phân biệt
được chiều hướng của hai bộ
Luật này nữa ? Do đó tổ Đạo Tuyên cho
lối phán giáo ấy là "lạm,"
nghĩa là thái quá
thành lẫn lộn bất phân nữa. Từ đó tổ
phán định lại Luật Tứ Phần vẫn
thuộc về Tiểu Thừa Giáo, song được gọi
là "quá phận Tiểu Thừa Giáo," nghĩa là tuy là Tiểu Thừa song "ngấm ngầm" có ý hướng vươn lên khỏi
Tiểu Thừa, đối với các bộ Luật kia
được gọi là "đương
phận Tiểu Thừa Giáo," nghĩa là hoàn toàn thuộc về, nằm
gọn trong lãnh vực của giáo lý Tiểu Thừa. Hay nói
khác hơn là Luật Tứ Phần là "phận
thông" với
Đại Thừa, nghĩa là có phần nào đó thuộc
về Đại Thừa, chứ không phải toàn thể
là Đại Thừa, hoặc có nghĩa là tuy Luật
Tứ Phần là Tiểu Thừa Giáo nhưng lại tông
theo Đại Thừa.
Sau này Linh Chi luật
sư (1048-1116) đời Tống nêu ra 5 nghĩa trong
Tứ Phần để chứng minh điều này, ngài
nói : "Tứ Phần tuy
vốn là tiểu thừa, song không giống với các
bộ luật khác của Tát Bà Đa bộ, vì nó có một
phần nào đó chung với đại thừa. Tìm xét nghĩa
lý thời bổn luật này có 5 chỗ, do 5 chỗ đó
thấy rõ là có phần thông với đại thừa."
Năm chỗ ấy thường gọi là "ngũ nghĩa phận thông" như sau :
Đạp Bà hồi
tâm : Đạp Bà Ma La Tử đã chứng A La Hán quán thân
vô thường không chắc thực, rồi khởi tâm tìm
pháp chắc thực bằng cách phát nguyện làm việc
phục dịch cho Tăng. Phát tâm như thế chính là "hồi tâm" về Đại Thừa, tu hạnh lợi tha, chứ
không vì chán thân mà xả bỏ hết để vào tịch
diệt.
Thí sinh thành Phật :
Bài kệ cuối cùng trong văn hồi hướng sau khi
tụng Giới xong của bộ Luật này là: "Tôi nay nói Giới kinh, bao công đức có ấy, thí
tất cả chúng sinh, đều cùng thành Phật
Đạo."
Thí công đức cho chúng sinh đều thành Phật như
thế thì sao là tiểu thừa được?
Tương triệu
Phật tử : Trong lời tựa của Tứ Phần
thường có các câu nói như : "Như
vậy các Phật tử," hoặc "Phật
tử cũng như vậy." Thường thì chỉ trong Đại
Thừa Giới, như Phạm Võng Kinh, mới gọi
Tăng chúng là "Phật
tử" còn trong
Tiểu Thừa Giới chỉ gọi là Tỳ Khưu. Nay
Tứ Phần gọi Phật tử như thế là
rất gần gũi với Đại thừa.
Xả tài dụng
khinh: Khi một tài vật của một vị Tỳ
Khưu theo luật bị coi là dư thừa, thì vị này
phải xả tài vật ấy cho Tăng, để sau
đó Tăng sẽ hoàn lại cho vị ấy. Nếu
tăng không hoàn lại mà tự tiện sử dụng tài
vật ấy, thời trong Tứ Phần phán là tội "khinh,"
tức tội nhẹ, chứ không phán là tội trộm
cắp. Bởi xét theo tâm ý của vị Tỳ Khưu kia đã
thành tâm xả vật, không coi là của mình nữa, nên
vật kia trở thành vật vô chủ, vì vậy nên tùy
tiện sử dụng vật ấy không bị tội
trộm mà chỉ là tội nhẹ thôi. Thể theo ý
nghiệp mà phán định như thế là thuộc về
giáo nghĩa của Đại Thừa vậy.
Thức liễu
trần cảnh: Trong Tứ Phần khi nói về giới
tiểu vọng ngữ, có nói : "nhãn
thức thấy được, nhĩ thức nghe
được, tỉ, thiệt, thân thức xúc chạm
được, ý thức biết được." Tiểu Thừa Hữu Bộ chủ
trương các căn mắt, tai, mũi, lưỡi thân, ý
có công năng nhận biết các cảnh, chứ không
phải là "thức." Ngược lại Đại Thừa
chủ trương các "thức" mới phân biệt
nhận biết được các cảnh chứ không
phải các căn. Nay Tứ Phần cũng chủ
trương "thức" biết các cảnh, thế nên hoàn toàn phù
hợp với kiến giải của Đại Thừa.
Ngoài ra chính tổ
Đạo Tuyên cũng ghi nhận cho hay là ngay câu kệ
đầu tiên của bài tựa Giới Kinh của
Luật Tứ Phần là "Khể
thủ lễ chư
Phật, cùng Pháp, Tỳ
Khưu Tăng..."
thì đặc biệt cũng chỉ có Luật Tứ
Phần mới lễ "nhiều" Phật theo tinh thần của Đại
Thừa, chứ không chỉ lễ riêng một Thích Ca
Phật như các bộ Luật kia. Dĩ nhiên bài tựa và
hồi hướng của Giới Kinh là do Bộ chủ
Đàm Vô Đức làm ra, song điều ấy cho thấy
là ngài Đàm Vô Đức có xu hướng Đại
Thừa, và do đó bộ phái này và bộ Luật này
đương nhiên cũng thuộc về khuynh
hướng Đại Thừa.
Kết luận
Qua đó, chúng
ta thấy được lý do chính yếu tại sao các
bậc cao tăng thạc đức trong học giới
Phật giáo Trung Hoa lại lựa chọn Luật Tứ Phần
làm bộ Luật chính yếu để hành trì. Chẳng
phải vì bộ Luật này có tầm vóc đồ sộ
gì hơn, có nhiều chi tiết đặc biệt gì
hơn, hay cổ xưa gì hơn, nguyên thủy gì hơn các
bộ luật khác, so sánh với nhau nội dung các bộ
vẫn có nhiều điểm ưu khuyết qua lại, vì
thế khi giải thích về Tứ Phần Luật tổ
Đạo Tuyên vẫn dựa trên tất cả các bộ
Luật khác để bổ túc những gì mà Tứ
Phần Luật thiếu sót. Do đó, lý do chư tổ
chọn Luật Tứ Phần chẳng qua là vì chỉ riêng
bộ Luật này thôi mới có khuynh hướng
Đại Thừa. Mở đầu bộ Tứ Phần
Luật Hành Sự Sao, Đạo Tuyên luật tổ đã
tốn khá nhiều giấy mực để trình bày về
vấn đề này. Một khi bộ Luật này tông theo
Đại Thừa như thế rồi, thời mọi ý
nghĩa quan trọng khác như về Tam Bảo, về phát
tâm quy y thọ giới, về sám hối v.v...