Những người muôn năm cũ
...Nhớ mang máng
ở đâu đó có một bài thơ tưởng
đến "Ông đồ
già"... mỗi
năm hoa đào nở, lại nhớ ông đồ già,
nghiên mực, tờ giấy đỏ, bên phố đông
người qua... Hình ảnh quen thuộc này
cứ lập lại mỗi năm, mỗi năm. Nhưng
ngày nay không còn nữa. Vẫn hoa đào nở rộ,
vẫn đường phố có đông người qua
lại. Mà không thấy hình ảnh ông đồ ngồi
"bán chữ". Người nhớ hình ảnh cũ
bâng khuâng đặt câu hỏi :
...Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
Tự nhiên,
hết sức tự nhiên ! Ai cũng có thể đặt
ra câu hỏi đó. Vua, quan, sĩ, thứ người muôn
nước (Tú Xương, chữ "sĩ"
ở đây cũng có thể bao gồm cả tu sĩ !) ai ai gặp cảnh ngộ tương
phản trong cuộc đời cũng đều
đặt ra câu hỏi đó :
- Những
người đã sống, đã đóng góp công sức
trước đây, rồi họ mất đi, theo lẽ
vô thường. Bây giờ họ ở đâu, họ sinh
hoạt thế nào ? có còn liên hệ gì với người
hiện tại không ?
Theo tín
ngưỡng dân gian, khi mất đi là sum họp với "thế giới ông bà" cho nên thường dùng chữ "theo ông theo bà"
(diệp lạc quy căn : lá rụng về cội). Và cứ hàng năm vào ngày kỵ
giỗ, tết nhứt hay rằm tháng bảy, họ tách
khỏi "khối ông bà" trở về
"thăm"
để thấy con cháu cúng bái, nghe con cháu kể lể,
cầu xin... ông bà cha mẹ chứng cho tấc dạ lòng
thành cây hương, chén nước và luôn luôn phò hộ cho
đám con cháu... làm ăn tấn phát, tai qua nạn
khỏi...v..v...
Trông ra
ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu
hiu gió, thì hay chị về.
(Kiều)
Còn với người phật tử thì
sao ? Nhất là những phật tử có quy y Tam bảo,
đã có phần nào tu tập và đã làm những việc
công quả phước đức khi còn sống ? Bây
giờ họ ở đâu ? Có còn liên hệ gì với
người hiện tại ?
Dĩ nhiên có
rất nhiều câu trả lời. Trong đó có câu : đã
vảng sanh Cực Lạc rồi. Tức sinh về làm "công dân" nước Cực Lạc
(Cực Lạc quốc) của Đức Phật A Di Đà. Tu tập với
thánh chúng bồ tát... (Bồ tát bất
thối vi bạn lữ)... Nhưng vì thế giới Cực Lạc quá xa (cách thế giới chúng ta hàng ... thập vạn
ức Phật độ) phương tiện truyền thông
hiện đại vẫn chưa có thể thiết
lập liên lạc... nên ít ai biết được tin
tức cập nhựt như thế ào, trừ 3 bộ Kinh
(Tịnh độ tam Kinh).
Còn nếu
chưa sinh được về nước Cực
lạc thì họ đi đâu ?
Tìm mãi mới
gặp 1 kinh trong hệ thống A Hàm nói về chuyện
này. Xin kể ra đây để làm món quà nhỏ (có lẽ còn nhiều kinh khác có đề cập
đến vấn đề này nhưng chưa có nhân duyên
đọc tới. Nếu có vị nào tìm được
thấy lý thú hơn, xin chỉ dạy thêm).
Đó là Kinh
Xà Ni Sa (Janavasabha -suttanta) Kinh số 18 trong tập 2 của Kinh
Trường Bộ. Bản dịch chữ Hán cũng có tên
giống nhau. Kinh Xà ni Sa thuộc bộ Trường A Hàm
Tập 1, Kinh số 4.
Đã gọi
là Kinh "Trường" Bộ cho nên kể lể
rất dài dòng, xin mạn phép được rút gọn cho
dễ nắm bắt những ý chính.
Khi
Đức Phật còn tại thế (25
thế kỷ trước), có ngài A Nan làm thị giả. Một
hôm, A Nan nghĩ rằng : Đức Thế Tôn
thường hay tuyên bố về vấn đề tái sinh
của những tín đồ đã từ trần, đã
mệnh chung trong các bộ lạc xung quanh như bộ
lạc Kasi, Kosala, Vajji, Malla... Vị này sinh ra tại
chỗ này, vị kia sinh ra tại chỗ kia. Có vị đã
đoạn trừ 5 hạ phần kiết sử nên
được hoá sanh về thiên giới (cõi trời)
từ đó nhập Niết Bàn không còn trở lại
đời này nữa... Có vị đoạn trừ 3
phần Kiết sử (tham sân si
giảm thiểu)
chứng quả Nhất Lai nên chỉ trở lại
đời này 1 lần nữa thôi...
Rồi, tôn
giả A Nan nghĩ tiếp : Nhưng còn ở xứ Ma
Kiệt Đà (Magadha một
tiểu quốc, miền bắc Ấn độ nơi
Đức Phật thành đạo) có rất nhiều tín đồ
thuần thành đã từ trần; Những vị này
đều có lòng tin sâu xa chắc chắn đối
với Tam Bảo, tu tập theo Chánh pháp. Nhưng Đức
Thế Tôn không nói gì về sự từ trần và tái sanh
của họ. Trong số này có Vua Tần-Bà-sa-la (Bimbisàra)
xứ Ma Kiệt Đà, một vị vua đã sống
như Pháp, dùng Chánh pháp để trị nước có lòng
thương tưởng đến các vị Bà la môn, gia
chủ cùng dân chúng khắp nơi... Nhưng sau khi vua Tân Bà
sa la băng hà, cũng chưa thấy Đức Thế Tôn
nói gì về sự từ trần và tái sinh của nhà vua...
Nghĩ
như vậy rồi, Tôn giả A Nan đến hầu
Phật đảnh lễ Ngài rồi tác bạch như
trên. Đức Thế Tôn, sau khi nghe tác bạch xong, đi
vào thành khất thực. Về, thọ trai, ngồi
thiền định tư duy, chú lực toàn tâm suy
tưởng đến các tín đồ đã qua
đời ở Ma-Kiệt-Đà : "Ta
sẽ tìm ra chỗ thọ sanh của họ và đời
sống của họ như thế nào ?"
Lúc ấy có
một vị Dạ Xoa (Yakkha) hình tướng oai nghiêm rực rỡ
hiện ra:
- Bạch
đức Thế Tôn, con tên là Janavasabha ! Ngài có nghe ai có tên
này chưa ?...
- Bạch đức Thế Tôn, con
là Bimbisara (Tần
bà sa la) đây. Nay là lần thứ 7,
con được sanh vào dòng họ vua Vesavana (Tỳ sa môn Thiên
vương - trong cõi Tứ Thiên Vương - Lục
Dục thiên). Con chết đi trong
địa vị làm vua ở nhơn gian nay được
sanh trên thiên giới (cõi trời)...
con không còn đọa lạc vào ác thú, con trở thành
bậc Nhất lai (chỉ sanh lại cõi đời
một lần nữa).
Đức Phật dạy :
- Thật hy hữu thay, hiền
giả Dạ xoa Xà-Ni-Sa (Janavasabha).
Do nguyên nhân gì hiền giả tự biết mình đạt
được địa vị cao thượng thù
thắng như vậy ?
- Bạch đức Thế
Tôn, con không làm gì khác ngoài tu tập theo giáo lý của
đức Thế Tôn. Từ khi con nhất hướng quy
y Tam Bảo, con đã tu tập, thực hành theo Chánh pháp,
không còn đọa lạc vào ác thú và đã trở thành
bậc Nhất lai....
Hôm
nay, con đang đi làm nhiệm vụ trên cõi thiên. Giữa
đường, con nhận ra đức Thế Tôn đang
chú lực toàn tâm suy tưởng đến các tín
đồ từ trần ở Ma Kiệt Đà : bây giờ
họ ở đâu, vận mạng của họ thế
nào ? Liền đó, Bạch Đức Thế Tôn, con suy
nghĩ ta sẽ đến yết kiến, đảnh
lễ đức Thế Tôn và sẽ đề cập
đến 2 vấn đề (thọ sanh và vận mệnh) mà đức Thế tôn đã
chú tâm...
Tiếp
đó, Kinh Xà ni Sa kể về đời sống chư
thiên ở cõi trời Đao Lợi (Tam thập Tam
thiên) trong những
ngày rằm Bố tát rồi Phạm thiên rực rỡ
hiện ra đảnh lễ tán dương công đức
giáo hoá của đức Thế Tôn ở trong cõi Ta Bà này và
những phương pháp tu tập để rồi sau khi
mạng chung được sanh về thế giới
chư thiên. Trên, từ Tha hoá tự tại thiên, Đâu
Suất đà thiên cho đến Tứ thiên Vương
thiên, Càn Thát bà...
Và những vị nào đã thực
hành theo giáo pháp của đức Thế Tôn (Tứ Niệm
Xứ, Tứ Thần Túc, 7 Pháp Định...),
sau khi mất, sanh thiên giới đều là những vị
hình có tướng đoan nghiêm, quang sắc thù thắng...
Rồi sau cùng, Kinh Xà ni Sa kết
luận : tất cả những vị hóa sanh (về thiên
giới) được Chánh pháp hướng dẫn, có
hơn hai trăm bốn mươi vạn cư sĩ
ở Ma Kiệt Đà đã từ trần đều
diệt trừ ba Kiết sử, chứng quả Dự
lưu, không còn đọa vào ác thú, chắc chắn
đạt được chánh giác.....
Đó là những ý chính của Kinh Xà
ni Sa trong hệ thống Kinh Trường bộ của
Đại Tạng Pali Nam Tông và Kinh Xà ni Sa thuộc
Trường A Hàm tập 1, Kinh số 4 (Hán Tạng :
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (tập 1, trang
34 - A Hàm Bộ) cũng đại để có
ý nghĩa nêu lên như vậy.
Còn đối với kinh
điển thuộc hệ Bắc Tông Đại thừa,
ít thấy tường thuật cụ thể chi tiết,
trừ kinh A Di Đà, một trong 3 bộ kinh quan trọng
của pháp môn tu Tịnh độ.
Nhưng
kinh A Di Đà thuộc về loại kinh "vô vấn
tự thuyết" nghĩa
là không có ai hỏi mà Đức Phật tự thuyết
minh, một khi Đức Phật nhận thấy đã
đầy đủ nhân duyên vì "hạnh phúc cho chúng sanh, an
lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho
đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài
người",
Ngài liền chỉ dạy đệ tử pháp môn tu,
dẫu rằng pháp môn ấy đối với thế gian
rất khó, rất khó tin.
"...Vị
nhứt thiết thế gian thuyết thử nan tín chi pháp
thị vi thậm nan..."
Đúng
vậy, kinh điển thuộc hệ bắc tông đòi
hỏi một sức mạnh tin tưởng (tín lực) một quyết tâm kiên cố bền
bỉ (tấn lực) mà không đòi hỏi những giải
thích chi li. Vã lại, nhiều khi những giải thích chi li
lại là vô nghĩa, cục bộ tùy thời làm mất ý
nghĩa thâm sâu, bao quát, vượt thời gian và không gian
của kinh điển. Bởi lẽ Kinh Đại
Thừa Bắc Tông hầu hết đều là những
ẩn dụ, những bức tranh chấm phá một vài nét
mà mục đích chính không phải nói đến những
nét tô đậm trong bức tranh. Vẽ mây nảy trăng.
Ý tại ngôn ngoại. Muốn vẽ trăng, người
họa sĩ tài ba chỉ cần vẽ mây có vầng sáng.
Thế là người đủ lý trí nghiệm ra có mặt
trăng tròn đầy ẩn hiện phía sau.
Bởi
vậy, càng giải thích chi li các chi tiết trong kinh
điển Đại thừa nhiều khi càng lìa xa ý chính
của kinh. Cho nên đòi hỏi kinh điển Đại
thừa diễn tả rõ ràng mạch lạc, chi tiết là
một đòi hỏi có vẻ hạn chế, cục
bộ.
Kinh A Di Đà
nói riêng , và tất cả kinh điển Đại
thừa Bắc tông nói chung đều được nhìn
theo một nhãn quan như thế, mới nhận ra
được những thế giới mầu nhiệm bao
la, những trùng trùng sự thật mà một nhãn quan
phiền não, cục bộ khó có thể trực nhận
được.
Hiểu
như thế rồi thì không có gì ngạc nhiên khi đi tìm
bóng dáng, tông tích các vị từ giả cõi tạm thế
gian này qua kinh điển, hành trạng, gần như vô
vọng, hoài công. Mà nhiều khi gặp những hình ảnh
hừng hờ, hay còn bị quở trách.
Chẳng
hạn trong kinh Pháp Bảo Đàn, các môn đồ buồn
khóc khi biết Lục Tổ sắp từ giả thế
gian. Lục Tổ quở :
- Nay các người buồn khóc là vì
lo cho ai ? Nếu lo cho ta không biết chỗ đi thì ta
đã tự biết chỗ đi rồi. Nếu ta không
biết chỗ đi thì ta chẳng báo tin cho các ngươi
hay trước. Các ngươi buồn khóc là vì chẳng
biết chỗ ta đi đến. Cái pháp tánh vốn không
sanh diệt khứ lai...
Đại Lão Hoà Thượng Hư
Vân khi tuổi thọ 120, bạn hữu, đồ chúng vui
mừng định tổ chức sinh nhựt mừng
đại thọ. Ngài
can ngăn :
...Nghiệp
xưa đốc thúc, chìm nổi như sóng ba đào.
Một làn gió nhẹ thổi đến, thân này tan thành tro
bụi. Chưa liễu ngộ được gì, niệm
niệm thẹn thùng xấu hổ vì hư danh. Trăm
năm khổ nhọc nếm bụi trần trong cơ
mộng huyển, thì cớ gì phải lưu luyến.
Lại nữa, có sanh tức phải có tử. Người
trí sớm tỉnh ngộ, nhất tâm tu hành như cứu
lữa cháy trên đầu, có thì giờ đâu mà bày biện
vui mừng như người thế tục !...
Ngài ung dung
tự tại đi vào cõi chết, sau khi dặn dò
đồ chúng cố gắng tu hành vì "mạng mạch Phật pháp mà
giữ gìn Tổ đức Thanh quy, vì Tam Bảo mà giữ
chặt chiếc đại y !..."
Dường như càng cố tâm đi
tìm trông tích, dấu vết của "những
người muôn năm cũ", nhất là
những bậc tu hành sống đạo, liểu
đạo thì càng gặp phải những hình ảnh
tự nhiên hững hờ như mây bay, gió thoảng,
nước chảy, suối reo. Bởi lẽ suốt
cuộc đời của họ (hay
nhiều đời về trước cũng có thể
nhiều đời về sau) gắn
liền với mạng mạch Phật pháp, với tổ
đức tông phong. Bao giờ hình ảnh đó còn sinh
hoạt sống động trên thế gian tức pháp thân
của họ còn thể hiện đâu đây. Khỏi
phải đi tìm đâu cho xa xuôi !
Thích Minh Tâm
(Bài viết
cho Kỷ Yếu ngày Đại Tường Cố Hoà
Thượng Thích Đức Niệm, có sửa chữa
lại và thêm bớt)