Lợi
ích của cây ớt
Đinh Công Bảy
Cây ớt còn
gọi là lạt tiêu (lạt có nghĩa rất cay) tên khoa học Capsicum
frutescen L. (C.annum), thuộc
họ Cà (Sola naceae).
Cây bụi
nhỏ, cao 0,5-1m. Lá nguyên mọc đối, hình trái soan
nhọn. Hoa trắng, mọc đứng hay thõng xuống.
Quả mọng, có hình dạng, kích thước, màu sắc
thay đổi tùy thứ như : thuôn, mảnh hẹp, tròn,
màu đỏ, vàng, tím, xanh... thịt cay, hạt màu
trắng, hình thân đẹp.
Nguồn
gốc của cây ớt ở vùng châu Mỹ nhiệt
đớt, được Christophe
Colomb phát hiện
đầu tiên ở West Indies vào năm 1492. Người dân địa phương
gọi là Agi, dùng quả để ăn. Về sau,
được gọi là Chili hoặc
Cayena. Nhiều
nước ở Châu Phi, châu Á đã nhập trồng làm gia
vị và làm thuốc. Đặt biệt, Ấn Độ
và một số nước vùng Đông Nam Á trồng
rất nhiều ớt vì dân ở những nơi này ưa
chuộng ớt cũng giống như hồ tiêu (Piper nigrum L.).
Hiện nay, hầu như khắp thế giới
đều sử dụng ớt, dưới nhiều
dạng chế biến khác nhau.
Độ cay
của ớt cũng khác nhau. Người ta phân biệt
rất nhiều độ cay của ớt, nhưng mãi
đến năm 1917, nhà khoa học
W. Scoville (Mỹ) mới sáng chế ra kỹ thuật đo
lường độ cay của ớt. Loại ớt Habanero mọc
tự nhiên trong rừng Yucatan thuộc miền Nam
Mexico được
công nhận là cay nhất. Người ta diễn tả
rằng : ăn loại ớt này thì bị cảm giác
như đầu văng khỏi cổ (!). Thật
đúng là cay khủng khiếp.
Trong 100g
ớt có chứa 94g nước, 1,3g protein, 5,7g gucid, 200-400mg
vitamin C, 10mg carotene, 1,4g chất sơ, một alkaloid chính là
capsaicine (0,2%), một số chất như alpsanthine, adenine, betaine
và choline.
Chất
capsaicine khi tiếp xúc với phần nhạy cảm
của lưỡi và miệng sẽ tạo cảm giác cay
truyền lên não. Não bộ sẽ truyền lệnh cho cơ
thể phản ứng, tạo ra một số rối
loạn sinh học như : nhịp tim tăng lên, xuất
tiết vùng mũi, miệng, làm sụt sịt, chảy
nước mắt, nước dãi, hệ tiêu hóa co bóp
mạnh, đổ nhiều mồ hôi... Nếu cay quá có
thể ù tai, chóng mặt, nhứt đầu...
Theo y học
cổ truyền, quả ớt có vị cay, tính nóng, tác
dụng ôn trung tán hàn, kiện vi tiêu thực, hạ khí tiêu
đàm. Được dùng làm gia vị giúp tiêu hóa dễ
dàng, trị tiêu chảy, tích trệ. Nếu dùng dạng
bột với liều 0,3-1g/ ngày dạng viên, sẽ trị
được chứng nôn mữa, tiêu chảy, viêm dạ
dày và thận, thấp khớp, thống phong, thủy
thủng, viêm thanh quản.
Dùng ngoài, cồn thuốc tươi
hay cồn thuốc (1 phân ớt, 2
phần rượu 33*) hòa với nước (15-20g
với 1/2 cốc nước) xoa bóp bị viêm thần kinh do thấp
khớp, chống cảm lạnh.
Ngày nay,
người ta ghi nhận rằng người dân ở vùng
Trung và Nam Mỹ do có thói quen ăn ớt hàng ngày nên tỉ
lệ mắc bệnh tim mạch ít hơn so với
nhiều nơi khác.
Theo sách Dược thảo.
Bách khoa toàn thư của
Andrew Chevallier
(Nxb DK. New York 1996), ớt còn
có tác dụng gây trung tiện, làm thư giãn các cơ bị
co cứng, chống nhiễm khuẩn, kích thích tuần hoàn
ngoại vi và làm giảm đau.
Các bộ phận khác của cây
ớt như lá, thân, rễ cũng dùng làm thuốc.
Lá ớt có vị đắng, tính
mát, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng,
lợi tiểu. Được dùng để trị
sốt rét, khó tiêu hóa, đắp ngoài trị mụn
nhọt thong vỡ mủ, rắn rết cắn.
Theo kinh nghiệm dân gian, dùng 30g lá
ớt giã nát, chế nước chín vào, vắt lấy
nước cốt, uống trước khi lên cơn
sốt rét 2 giờ. Ngày uống 1 lần, uống liền
trong 5-7 ngày.
Người
có tình trạng dạ dày lạnh (vị hàn)
lại hay khát nước, nên ăn lá ớt non với
trứng gà và gừng sống (chiên hoặc nấu canh)
vài lần trong tuần. Ngoài ra, lá ớt sao vàng 20-30g sắc
nước uống có thể trị phù thủng do thấp
nhiệt.
Rễ cây ớt có tác dụng
hoạt huyết, tán thủng. Dùng rễ ớt 40-60g
nấu canh với thịt gà hoặc thịt heo làm món
ăn trị liệu cho người cao tuổi sức
khỏe kém, tiểu tiện khó, mắt mờ, tai ù, tay chân tê
mỏi.
Ở Việt Nam hiện nay có
rất nhiều giống ớt, có đến 50 thứ khác
nhau của cùng một loại :
- Loại ớt có
quả mọc đứng như : ớt chỉ thiên có quả màu nhỏ màu
đỏ, rất cay và rất sai quả (mỗi cây có
tới hang trăm quả); ớt hiểm
có quả rất nhỏ, màu đỏ, rất cay; ớt
tím có quả hình chùy, màu tím; ớt cà có quả đứng
hay thòng, tròn màu đỏ, cay.
- Loại ớt có
quả thòng xuống như : ớt sừng trâu có
quả nhỏ, màu đỏ, rất cay; ớt dài có
quả màu vàng, trồng làm cảnh và trang trí; ớt tây,
ớt cà chua, ớt bị, ớt ngọt, đều có hoa
to, quả to màu vàng, đỏ, chứ không cay,
thường dùng để xào ăn như một loại
rau. Ớt sừng trâu có giá trị kinh tế cao.
Người ta thường dùng
ớt ăn tươi, ngâm giấm, ngâm muối, làm ớt
bột, làm tương ớt...
*******
Bà con đồng hương nào chưa có
lịch Tử vi và lịch Treo tường
năm Ất Dậu - 2005, xin liên lạc về
chùa Khánh Anh.
-
Lịch Tử vi + cước phí gởi trong nước
Pháp và Âu châu : 17€
-
Lịch Treo tường + cước phí gởi trong
nước Pháp và Âu châu : 13€
-
Lịch Tử vi + cước phí gởi đến Mỹ
- Canada... : 19€
-
Lịch Treo tường + cước phí gởi đến
Mỹ - Canada... : 15€.