Niệm
Phật là làm thanh tịnh ba Nghiệp
Minh
Đức
Niệm
Phật là tịnh nghiệp pháp môn. Lợi ích lớn
nhất của niệm Phật không phải là phước
báu mà là ba nghiệp thanh tịnh, ba nghiệp thanh tịnh
thì an lạc, giải thoát. Cổ Đức có dạy : Tam nghiệp
hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây
phương. Không phải chỉ có tông
Tịnh Độ (Phật giáo Đại thừa)
mới dạy niệm Phật mà trong kinh điển Nguyên
thuỷ, Đức Phật đã dạy pháp môn này.
Chẳng hạn như kinh Thập Niệm, Kinh số 16
thuộc Tăng Chi Bộ kinh, chương một pháp (tương
đương với phẩm Thập niệm số 2,
phần một pháp của kinh Tăng Nhất A Hàm).
Tuy
nhiên, niệm
Phật trong kinh điển Nguyên thuỷ là
thực hành thiền quán, Phật là một trong mười
đề mục thiền quán (niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên,
niệm Hưu tức, niệm An ban, niệm thân, và
niệm tử) nhằm thanh lọc thân tâm, xa
lìa tham dục, thành tựu giải thoát Niết bàn.
Điểm này giống pháp quán tưởng niệm Phật
của Tông Tịnh độ. Hành giả
tưởng nhớ, quán sát về công hạnh của
Phật, về hảo tướng trang nghiêm của
Phật với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp,
tam minh, tứ trí, lục thông... Ở đây hành giả quán
niệm về đức Phật nào cũng
được, nhưng thường là quán niệm
đức Phật mà mình được biết nhiều,
về công hạnh và Đức Phật đó gần
gũi với mình. Đối tượng rõ ràng như thế
thì dễ dàng quán niệm, vì thế thường là quán
niệm Đức Thích Ca. Còn tông Tịnh Độ thì
chủ yếu cầu vãng sinh về cõi của Đức
Phật A Di Đà nên đối tượng quán niệm là
Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc.
Về bản chất, pháp môn
niệm Phật cũng như thiền quán, cả hai
đều có mục đích chung là duy trì chánh niệm và
đạt được chánh định. Trạng thái : "nhất tâm
bất loạn" hay "Tâm bất
điên đảo" của hành
giả niệm Phật mà kinh A Di Đà nói chính là trạng
thái chánh định của Thiền tông. Điều
kiện vãng sinh của pháp môn Tịnh độ là "nhất tâm
bất loạn" là "tâm bất
điên đảo", cũng
giống như điều kiện giải thoát của hành
giả tu thiền là thành tựu chánh định và tuệ
giải thoát. Pháp môn niệm Phật đặc biệt là trì danh niệm
Phật, thích hợp với hầu hết
mọi đối tượng, mọi hoàn cảnh, bất
cứ căn cơ, trình độ nào cũng đều có
thể tu tập thành tựu. Bậc thượng căn
thượng trí có thể giác ngộ giải thoát ngay trong
đời hiện tại, hoặc vãng sinh về cõi
Tịnh độ của đức Phật A Di Đà
tiếp tục tu học cho đến khi thành tựu
quả Vô thượng Bồ đề. Nhưng dù giác
ngộ giải thoát trong đời này hay đới
nghiệp vãng sinh thì cũng đều không còn
luân hồi sinh tử.
Niệm Phật còn là pháp hiện
tại lạc trú, có nghĩa là dù chưa giác
ngộ giải thoát, chưa vãng sinh nhưng hiện tại
vẫn an lạc. Vì niệm Phật giúp thanh tịnh ba
nghiệp, tâm ý thanh tịnh không còn điên đảo
vọng tưởng thì đoạn trừ được
phiền não khổ đau, khi tâm ý thanh tịnh thì không
tạo tác ác nghiệp nên không thọ ác báo. Trong Khóa hư
lục, quyển thượng, phần bàn
về niệm Phật, vua Trần Thái Tông có nói : Niệm
Phật là do tâm phát khởi. Tâm khởi thiện là niệm
thiện, khởi thiện niệm thì tất báo thiện
nghiệp. Tâm khởi ác là ác niệm, khởi ác niệm thì
tất ứng ác nghiệp, như gương hiện
ảnh, như bóng theo hình. Cho nên Thiền sư Vĩnh Minh
Diên Thọ nói : "Ai mà vô niệm, ai mà vô sinh".
Người học Phật ngày nay muốn khởi chánh
niệm để thanh tịnh ba nghiệp cũng nhờ
ở công phu niệm Phật. Vì sao ? Khi niệm Phật thân
ngồi ngay thẳng không làm tà hạnh, đó là dứt thân nghiệp.
Miệng tụng chơn ngôn (ý nói danh hiệu
Phật) không nói lời tà, đó là dứt khẩu nghiệp.
Ý nghĩa tinh tấn không khởi niệm tà,
đó là dứt "Ý nghiệp".
Tâm
ý là nguồn gốc sinh ra các pháp thiện và bất
thiện. Tâm thanh tịnh thì sinh ra các pháp thiện, tâm
nhiễm ô thì sinh ra các pháp bất thiện. Như trong kinh
Pháp Cú, Đức Phật đã dạy : "Trong các pháp,
tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. nếu
nói hoặc làm với tâm thanh tịnh, sự vui sẽ theo
nghiệp kéo đến như bóng theo hình" (pháp cú I, II,
phẩm song yếu).
Tâm khởi lên điều thiện
tức là thiện niệm, khởi thiện niệm thì báo
thiện nghiệp, tức thọ quả báo tốt, an lành,
hạnh phúc. Tâm khởi lên điều ác tất ác niệm,
khởi ác niệm thì báo ác nghiệp, tức thọ quả
báo xấu, khổ đau. Niệm Phật là khởi
thiện niệm tất nhiên đạt được
phước báu, thắng duyên an lạc giải thoát.
Niệm Phật là giữ gìn chánh niệm, đoạn
trừ tà niệm là các niệm mê lầm, điên
đảo. Khi niệm Phật thân đoan chánh trang nghiêm
không làm tà hạnh, không tạo tác các nghiệp sát hại,
trộm cắp, dâm dục, miệng niệm danh hiệu
Phật, không nói lời tà, không vọng ngôn (nói dối,
lời không thật) ác ngữ (nói lời hung ác),
lưỡng thiệt (nói lưỡi hai chiều)
ỷ ngữ, (nói
lời thiêu dệt), ý giữ gìn chánh niệm, luôn
nhớ nghĩ danh hiệu Phật, không khởi các vọng
tưởng điên đảo, không có niệm tham, sân, si, hành
giả niệm Phật một cách siêng năng, miên mật
thì ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, bất cứ
lúc nào ba nghiệp thanh tịnh thì lúc đó hành giả an
lạc, giải thoát.