Bồ Tát Địa Tạng Bảo Vệ Trẻ con

 

...Theo niềm tin tưởng rất lâu đời của Phật tử Nhật Bản kể từ thời Trung cổ thì Bồ Tát Địa Tạng rất thương yêu trẻ con và vì thế Ngài là vị Bồ Tát có một sứ mệnh rất đặc biệt là bảo vệ trẻ con.

Chính vì vậy mà đa phần những hình tượng Bồ Tát Địa Tạng tại Nhật Bản đều mang một khuôn mặt trẻ thơ rất đáng yêu. Trong các quốc gia theo truyền thống Phật giáo Đại thừa như Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam..v..v... chỉ có Nhật Bản là có truyền thống độc đáo này. Người ta không biết rõ niềm tin này được phát xuất từ đâu, có thể là bắt nguồn từ cuốn Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện. Theo một phẩm ở trong cuốn kinh này thì vị quỉ thần trách nhiệm về sinh mệnh và tuổi thọ của con người, Chủ Mạng Quỉ Vương cũng là một vị Bồ Tát do lòng từ hoá hiện, trong khi cùng với các vua Diêm La câu hội về cung trời Đao Lợi để nghe Phật thuyết pháp, đã bạch Phật :

"Người trong cõi Diêm Phù Đề lúc mới sanh, không luận là con trai hay con gái, khi sắp sanh ra chỉ nên làm việc phước lành thêm sự lợi ích cho nhà cửa, thời Thổ Địa vui mừng khôn xiết, ủng hộ cả mẹ lẫn con đều đặng nhiều sự an vui, hàng thân quyến cũng được phước lợi. Hoặc khi đã hạ sanh rồi, nên cẩn thận chớ có giết hại sanh vật để lấy những vị tươi ngon cung cấp cho người sản mẩu ăn, cùng nhóm họp tất cả hàng quyến thuộc lại để uống rượu ăn thịt, ca xang đờn sáo, nếu làm những việc trên đó có thể làm cho người mẹ đứa con chẳng đặng an vui."

(1)

Trong một đoạn kinh khác, khi tán thán về công năng và oai lực của Bồ Tát Địa Tạng, Phật đã tuyên thuyết cùng Bồ Tát Phổ Quảng :

"Lại vầy nữa, này Phổ Quảng ! Trong thuở về sau này, nơi cõi Diêm Phù Đề, trong hàng Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Trưởng Giả, Cư Sĩ, tất cả các hạng người, và những dân tộc giòng họ khác, như có người nào mới sanh đẻ hoặc con trai hoặc con gái, nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ mới sanh đó mà tụng kinh điển không thể nghĩ bàn này, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát đủ một muôn biến. Được vậy thời đứa trẻ hoặc là trai hay là gái mới sanh ra đó, nếu đời trước nó có gây ra tội vạ chi cũng đặng thoát khỏi cả, nó sẽ an ổn vui vẻ dễ nuôi, lại thêm được sống lâu. Còn như nó là đứa nương nơi phước lực mà thọ sanh, thời đời nó càng được an vui hơn càng sống lâu hơn." (2)

Chăm lo cho hạnh phúc trẻ thơ chưa đủ, Bồ Tát Địa Tạng còn chăm lo đến số phận của những trẻ thơ bất hạnh đã lìa đời ngay lúc còn thơ ấu, hoặc vì lý do nào đó đã chết khi đang còn là một bào thai ở trong bụng mẹ. Chết yểu, theo quan niệm của người Á Đông là một điều bất hạnh. Càng bất hạnh hơn nữa theo quan điễm Phật giáo là vì trẻ thơ chưa có ý niệm về sự sống, chết, thế nên trong giai đoạn thân trung ấm, thần thức của chúng vẫn còn lảng vảng chung quanh những người thân yêu như cha mẹ anh chị em, không chịu rời bỏ căn phòng và ngôi nhà mà chúng đã từng sinh sống.

Hàng ngày chúng tiếp xúc với họ, nói chuyện với họ và cảm thấy rất đau khổ vì những người thân yêu này hầu như không ai nghe lời chúng, không có vẻ gì quan tâm đến chúng cả. Chúng thật là cô đơn, buồn tủi và rất đáng tội nghiệp. Chúng ta đừng vội nghĩ một cách đơn giản rằng vì trẻ con ngây thơ trong trắng, trong đời chúng chưa hề gây ra một ác nghiệp nào nên khi chết là có thể được sanh về những cảnh giới tốt đẹp. Sự thật không phải như vậy. Điều này đã được Đức Thế Tôn giải thích một cách rõ ràng khi phản bác lập luận của một người ngoại đạo cho rằng, nếu một người nào đó, thân không làm những điều xấu ác, miệng không thốt những lời cay độc, không có những tác ý xấu xa, không kiếm sống bằng những nghề bất lương, người đó như thế đã hoàn tất những nổ lực tu tập tinh cần cần thiết và trở thành một bậc thánh, một bậc giác ngộ trong kiếp sống này. Đức Thế Tôn đã phản bác rằng :

"Một hài nhi còn nằm ngữa chưa hề có ý niệm thế nào là "thân" làm sao chúng có thể có những hành động xấu ác khi thân chỉ biết bò và lật ? Một hài nhi còn nằm ngữa ngay cả còn chưa biết "nói chuyện" thì làm sao có thể thốt ra được những lời cay độc khi miệng chỉ biết khóc nhè ?... [Chúng] không hề có ý niệm thế nào là "tác ý" thì làm sao có thể có những tác ý xấu sa ? [Chúng] không hề có ý niệm thế nào là "nghề nghiệp sinh sống" thì làm sao chúng có thể hành nghề bất lương để kiếm sống ngoại trừ rúc vào vú mẹ ? Nếu tất cả những gì mà [ông] nói như thế, thì một đứa hài nhi còn nằm ngữa là một bậc thánh, và là [1 bậc] giác ngộ. (3)

Như thế những linh hồn trẻ thơ này sẽ đi về đâu trong và sau giai đoạn thân trung ấm và Bồ Tát Địa Tạng làm thế nào để cứu giúp chúng?

Bên bờ sông Nại Hà

Theo sự tin tưởng của người Phật tử Nhật Bản, lứa tuổi trẻ con vì trí óc còn non nớt chưa phát triển nên không thể phân biệt được phải trái cũng như không thể thấu hiểu được những giáo lý của đạo Phật. Dĩ nhiên vì không thông hiểu giáo lý, chúng không thể tu tập để đạt đến giác ngộ. như đoạn kinh Phật đã giải thích ở trên, vì thế nên tuy ngây thơ vô tội, sau khi từ giã cõi đời chúng không thể sanh vào cảnh giới Phật, kể cả cảnh giới Tịnh Độ. Ngược lại chúng bị rơi vào cõi u minh mờ mịt. Huyền thoại Á Đông thường đề cập đến một dòng sông mà người chết trong giai đoạn thân trung ấm cần phải vượt qua, đó là sông Nại Hà.

Theo truyền thuyết Nhật Bản, những trẻ con yểu tử sau khi chết đều tụ tập ở bên bờ sông này. Do lòng thương nhớ khôn nguôi đến những người thân yêu, tại đây chúng nhặt những hòn đá cuội sắp xếp thành những ngôi nhà để tưởng nhớ đến cha mẹ, anh chị em. Khi hoàn tất xong một cái, chúng bảo rằng : "Cái nhà này là của mẹ, người bảo bọc tôi. Cái nhà này là của cha, người nắm tay tôi dẫn dắt tôi trên đường đời. Cái này là của anh chị em tôi..."

Một số huyền thoại cho rằng chính trong lúc này Bồ tát Địa Tạng đã hiện ra để chơi với chúng, khuyến khích, tiếp tay xây dựng những ngôi nhà trẻ con này hầu giúp chúng tích luỹ công đức để nhờ đó có thể vượt qua sông Nại Hà, trong khi chờ đợi chúng lớn khôn với đầy đủ trí phán đoán để có thể đi đầu thai sang kiếp khác.

Tuy nhiên trong số những truyền thuyết này, cũng có truyện đã kể lại một cách thương tâm và ghê rợn hơn. Truyện mô tả là không khí bên bờ sông Nại Hà rất là đìu hiu và thê lương. Trẻ con thì không ngớt than khóc vì không còn cha mẹ để nương tựa, bám víu. Trong lúc này một mụ phù thuỷ độc ác tên là Datsuba với một con mắt cháy đỏ hung dữ hiện ra, lột hết quần áo của tất cả bọn chúng treo lên cành cây. Mụ không ngớt nguyền rủa chúng là do chết yểu nên chúng đã không hoàn tất bổn phận của người con là phải săn sóc, giúp đỡ cha mẹ lúc cha mẹ già yếu. Để bù lại, mỗi ngày mụ bắt chúng phải ở trần truồng xây những căn nhà bằng đá cuội như là một sự trừng phạt. Nhưng rồi cứ mỗi buổi chiều tối, khi những căn nhà đã sắp hoàn thành thì một bầy quỉ hung ác khác, đầu sừng răng nanh hiện ra, dùng gậy sắt đập phá hết tất cả những công trình xây dựng của bọn trẻ, miệng không ngừng la lối nạt nộ : "Khốn nạn cho tụi bây chết trước cha mẹ ! Tụi bây đâu đã biết cầu nguyện là gì !!"

Chính lúc này thì Bồ tát Địa Tạng hiện ra và bọn trẻ trong lúc đang kinh hoàng vội vàng chạy đến chui vào tăng bào của Ngài để tìm chổ ẩn trốn. Những đứa nhỏ hơn vì chạy đến trễ thì đeo vào cánh tay hay thiền trượng của Ngài. Bồ Tát Địa Tạng liền an ủi vỗ về chúng : "Không có gì các con phải sợ hãi cả. Từ đây Ta là Cha là Mẹ của các con." Bọn quỉ xúm lại đòi Bồ Tát Địa Tạng phải trao đám trẻ con lại cho chúng, nhưng Ngài đã dùng uy lực của mình phóng ra những hào quang rực rỡ khiến bọn chúng khiếp sợ bỏ đi. Huyền thoại này của người Nhật đã mô tả lại những nỗi đau khổ mà ngay cả một đứa trẻ nhỏ bé ngây thơ vô tội cũng phải gánh chịu ở thế giới bên kia và chỉ có Bồ Tát Địa Tạng là người duy nhất đã cứu vớt những linh hồn bé nhỏ đó.

Người ta không biết nguồn gốc của huyền thoại về giòng sông Nại Hà được phát xuất từ đâu. Có thể là bắt nguồn từ truyện Thập Điện Diêm Vương trong cuốn Ngọc Lịch Minh Kinh của người Trung Hoa, xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 8, nói rõ chi tiết cuộc hành trình về bên kia cõi chết mà mỗi người phải trải qua. Theo niềm tin của người Trung Hoa thì trong tuần lễ thứ hai của giai đoạn Thân Trung Ấm, mỗi linh hồn đều phải vượt qua dòng sông Nại Hà này. Có ba cách để đi qua sông. Người nhiều công đức thì thong dong đi qua cầu. Kẻ ít công đức hơn thì được phép lội qua ở chỗ cạn. Kẻ không có chút công đức nào lại mang nhiều tội ác thì phải lội qua con sông với giòng cuồng lưu chảy xiết đầy sóng to gió lớn. Đa số đều bị chết đuối. Những người vượt thoát qua được giòng sông Nại Hà đều lần lượt tuỳ theo tội ác nặng nhẹ sẽ do Thập Điện Diêm Vương phân sử, kết án và tống vào các cửa ngục. Đến cửa ngục thứ mười tức là cửa ngục cuối cùng, cũng là nơi tội nhân phải gánh chịu những hình phạt nặng nề nhất, Bồ Tát Địa Tạng xuất hiện xin với Diêm Vương cho tội nhân được giảm khinh. Bởi vì các vua Diêm Vương đều tôn kính Bồ Tát Địa Tạng, nên chỉ cần tìm ra một điểm tốt nhỏ nhất của tội nhân, vua Diêm Vương cũng nễ lời Bồ Tát Địa Tạng sẵn sàng cho họ được hưởng án giảm khinh.

Chính vì tin tưởng vào giòng sông Nại Hà này cũng như vào Bồ Tát Địa Tạng mà người Nhật Bản trong hàng thế kỷ qua đã xây dựng lên rất nhiều đền đài, lăng tẩm để thờ phượng Ngài dọc theo các bờ sông hay các gềnh đá bên cạnh bờ biển, mà một địa điểm nổi tiếng là "Sai no Kawara no Numa no Uchi" được xây dựng từ thời Edo (Giang Hộ). Tại đây những người cha mẹ đau khổ vì mất con đã sắp xếp những mộ tháp bằng đá cuội, hoặc đặt vào đó những viên đá nhằm tưởng niệm những đứa con đã qua đời trước bức tượng của Bồ Tát Địa Tạng. Có nơi người ta sắp xếp hàng trăm bức tượng nhỏ khuôn mặt của Bồ Tát Địa Tạng cùng với đồ chơi trẻ con xen kẻ bên cạnh những hòn đá tưởng niệm. Lâu ngày, những mộ tháp càng lớn dần lên do những người tin tưởng đến viếng thăm bỏ thêm vào những viên đá, không phải chỉ để tưởng nhớ đến những đứa con thân yêu của mình mà cho cả những linh hồn của những trẻ thơ bất hạnh đã đi qua cõi đời này kể cả những trẻ đã chết ngay từ lúc chưa sinh.

Bồ Tát Địa Tạng, như đã nói ở trên, không phải chỉ là vị Bồ Tát bảo vệ trẻ con mà theo truyền thuyết của Nhật Bản, đặt biệt là dưới thời đại Hean (Bình An), đã xuất hiện dưới dạng của một đứa trẻ. Triều đại Hean có thể được coi như là một triều đại đen tối trong lịch sử Nhật Bản. Chiến tranh, xã hội rối loạn, tai ương và dịch bệnh lan tràn khắp nơi tạo nên bao thảm cảnh đau thương khốn khổ cho mọi người. Những tín đồ Phật tử thuần thành tin rằng đây là giai đoạn mạt pháp đã đến và trước những thảm cảnh này, may ra chỉ có nhờ thần lực nhiệm mầu mới có thể cứu vãn được. Thế là người ta dốc lòng tin tưởng vào năng lực cứu độ của Bồ Tát Địa Tạng, và câu chuyện đã được truyền tụng như sau :

Dưới triều đại của Hoàng Đế Go. Ichido, bệnh đậu mùa bộc phát và lan ra nhanh chóng. Lưỡi hái của tử thần đã cuốn đi không biết bao nhiêu là sinh mạng. Nó không chừa bỏ bất cứ một ai, bất kể quan hay dân, người quý tộc hay kẻ bần hàn. Trước nỗi khổ đau lớn lao này của nhân sinh, với lòng từ bi vô lượng, một nhà sư tên Ninko không biết làm cách gì khác hơn là cầu nguyện đến sự giúp đỡ của Bồ Tát Địa Tạng. Đêm đó trong giấc mơ nhà sư Ninko trông thấy một đứa trẻ với khuôn mặt thanh tú xuất hiện, nói với Ngài : "Nay thì nhà ngươi đã thấy rõ sự vô thường của kiếp sống". "Vâng, những người tôi vừa mới gặp mới nói chuyện với họ hồi sáng đây, tối lại đã mất rồi. Ngay cả chúng ta đang hạnh phúc hôm nay nhưng ngày mai những khổ đau, thương tâm sẽ xảy đến. Không có gí là vĩnh cữu", sư Ninko trả lời.

Đứa trẻ mĩm cười : "không có gì để phải than trách trước những đau thương của kiếp sống. Có lúc nào mà con người lại không có những khổ đau ? Nếu một người muốn giải thoát khỏi những nổi khổ đau, họ nên nghe theo những lời dạy của Bồ Tát Địa Tạng".

Sư Ninko tỉnh giấc và vội vàng chạy đến tìm Kojo, nhà điêu khắc tượng nổi tiếng ở địa phương và nhờ ông ta đúc một pho tượng Bồ Tát Địa Tạng. Khi bức tượng hoàn thành, sư Ninko tổ chức một buổi lễ khánh thành và giảng thuyết một thời pháp về giáo lý và công năng cứu độ của Bồ Tát Địa Tạng. Tăng chúng và quần chúng Phật tử hoàn toàn chuyển động bởi thời pháp này và hết lòng quy ngưỡng vào Bồ Tát Địa Tạng. Tất cả những người có mặt tại ngôi chùa tham dự buổi lễ khánh thành đều thoát khỏi nạn đậu mùa. Bệnh đậu mùa cũng chấm dứt không lâu sau đó, nhưng người dân do lòng tin tưởng vì được cứu thoát trong tai ương vừa qua vẫn tiếp tục tôn sùng và thờ phượng Bồ Tát Địa Tạng.

Một câu chuyện nổi tiếng khác, kể lại nổi bất hạnh của 1 đứa trẻ lâm vào tình trạng mẹ ghẻ con chồng :

Nếu như trong kho tàng truyện cổ Việt Nam, có chuyện Phạm Công - Cúc Hoa với bà kế mẫu Tào Thị như là một điển hình của những bà mẹ ghẻ độc ác nhất trên thế gian này thì Nhật Bản cũng có một câu chuyện tương tự như thế nhưng được lòng trong bối cảnh hành hoạt của vị Bồ Tát chuyên cứu độ những trẻ thơ bất hạnh, Địa Tạng. Chuyện kể rằng : khoảng một ngàn năm trước đây, tại một ngôi làng nhỏ tên là Anwa có một người phụ nữ rất hiền lương mộ đạo, hết lòng sùng kính Bồ Tát Địa Tạng. Vì nhà nghèo cho nên bà luôn luôn ao ước và vẫn thường cầu nguyện làm sao có được một pho tượng Bồ Tát Địa Tạng để thờ phượng ở nhà. Một ngày nọ, trong khi đang giặt giũ ở giòng sông trước mặt nhà, bà nhặt được một pho tượng Địa Tạng bằng gỗ trôi tấp vào chỗ mình đang đứng. Xiết đỗi vui mừng, bà vội vàng mang pho tượng về nhà và từ đó, ngày hai buổi sớm, tối công phu thờ lạy Ngài rất nghiêm chỉnh. Vì chưa có con thế nên mỗi lần cúng lạy bà cũng không quên khấn vái Bồ Tát Địa Tạng giúp cho bà có một đứa con trai. Không bao lâu quả nhiên bà sinh được một đứa con trai. Nhưng bất hạnh thay, khi đứa bé tròn bốn tuổi thì người mẹ lâm bạo bệnh và qua đời. Chẳng bao lâu sau đó thì người cha tục huyền với một người đàn bà khác. Bà này là một người rất hung dữ và độc ác và đứa con chồng thường xuyên là nạn nhân cho những cơn thịnh nộ của bà kế mẫu hung ác này.

Đứa bé ngay từ hồi nhỏ do đã chịu ảnh hưởng của mẹ trong việc thờ cúng Bồ Tát Địa Tạng. Cho nên khi mẹ mất đi cũng không hề quên và xao lãng nghi lễ này. Tuy nhiên do sợ bà mẹ ghẻ đánh chưởi, nó đã phải làm trong âm thầm lén lút. Một hôm trong khi người cha có việc phải rời nhà ra tỉnh, nhân lúc bà mẹ ghẻ đang ngủ trưa, đứa bé vào bếp kiếm được một ít cơm nguội vội vàng đem dâng cúng lên bàn thờ của Bồ Tát Địa Tạng và mẹ mình. Quỳ trước bàn thờ, lòng nhớ thương mẹ không nguôi đã làm đứa bé bật khóc lên nức nở. Tiếng khóc của đứa trẻ làm bà mẹ ghẻ tỉnh giấc và khi trông thấy đứa trẻ đang cúng lạy mẹ nó, bà liền nổi cơn thịnh nộ và trong khi điên tiết lên vì giận dữ, bà đã túm lấy nó quẳng vào nồi cháo heo đang sôi sùng sục trên bếp lửa.

Trong lúc này người cha đang đi đường bỗng dưng cảm thấy lòng dạ bồn chồn nóng lên như lửa đốt khiến ông không thể cất bước được nữa và như có điều gì thúc dục, buộc ông phải quay trở về nhà. Đến đầu làng, ông bỗng gặp một nhà sư cõng một đứa bé ở sau lưng đang than khóc thảm thiết, tiếng khóc nghe rất quen thuộc. Không nghi ngờ gì nữa, đó là tiếng khóc của chính con ông ! Tuy vậy người cha chưa thấy mặt nên bán tín bán nghi hỏi nhà sư : "Thầy ơi, đứa trẻ nào đang khóc vậy ?" Nhà sư trả lời : "Ta đã đổi mạng cho đứa trẻ này khi người mẹ ghẻ của nó đang tìm cách giết nó. Ngươi hãy tìm kẻ nào đáng tin cậy để nuôi dưỡng và giáo dục đứa bé này." Nói xong nhà sư trao đứa bé vào tay của người cha đang kinh hoàng run rẩy.

Mang ơn nhà sư, người cha vội hỏi : "Thưa thầy. Thầy đang trụ trì ở chùa nào ?" Nhà sư trả lời : "Ta ở gần đền thờ vua Thập Điện", nói xong nhà sư biến mất.

Sau khi đem con gởi ở nhà ông bà nội, người cha quay trở về nhà và thấy bà vợ đang ra sức đun củi vào bếp, trên đó là một nồi nước đậy nắp, đang sôi. Thấy chồng xuất hiện bất ngờ, bà ta có vẻ bối rối và tìm cách dập tắt ngọn lửa. Anh liền hỏi vợ : "Thằng con tôi đâu rồi sao không thấy ?" Bà vợ gian hùng lúc này bèn giả bộ đau thương, sụt sùi kể lể : "Thấy không có ông ở nhà, thằng nhỏ bỏ chạy ra chơi ở cạnh bờ sông, không may sẩy chân rớt xuống sông, nước cuốn mất xác rồi". Người chồng không nói gì vội tiến đến cạnh nồi nước và mở nắp ra. Nổi ở trên mặt nồi cháu heo đang sôi sùng sục là một pho tượng của Bồ Tát Địa Tạng, pho tượng ở trên bàn thờ mà người vợ trước của ông đã thờ cúng hằng ngày ! Bây giờ thì anh ta mới hiểu hết ý nghĩa lời của nhà sư nói "Ta đã đổi mạng ta". Và biết rằng nhà sư mà ông vừa mới gặp không ai khác hơn chính là Bồ Tát Địa Tạng đã hoá hiện ra để cứu con mình. Chán nản trước tình đời, cảm động trước sự linh ứng nhiệm mầu của Bồ Tát Địa Tạng, người đàn ông xuống tóc đi tu và trở thành một nhà sư suốt đời tận tụy thờ phượng Bồ Tát Địa Tạng.

Bồ Tát Địa Tạng :

Vì hạnh phúc của trẻ thơ !

 Tháng bảy là tháng của Bồ tát Địa Tạng. Truyền thống Phật giáo Trung Hoa và Việt Nam đã chọn ngày Rằm tháng Bảy là ngày lễ Vu Lan và theo niềm tin tưởng của Phật tử Á Đông, đây cũng là ngày "Xá tội vong nhân" tức là ngày các vua Diêm Vương mở cửa ngục cho các hồn ma đói khát có cơ hội được đi kiếm ăn sau một năm trời bị dày vò thiêu đốt bởi đói khát trong địa ngục. Trong khi đó Phật giáo Nhật Bản chọn ngày 24 tháng bảy âm lịch là ngày vía của Bồ Tát Địa Tạng và cũng là lễ hội truyền thống của trẻ thơ (Trung Hoa và Việt Nam lấy ngày 30/7 âm lịch làm viá Địa Tạng Bồ tát). Đây là ngày hội dành cho trẻ em dưới 13 tuổi cùng với người lớn tham dự để bày tỏ lòng biết ơn Bồ Tát Địa Tạng, cũng như nhắc nhở đến sứ mệnh thiêng liêng của Ngài là bảo vệ trẻ thơ vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của đời người.

Theo thông lệ, sáng ngày 24 một cái rạp được dựng lên trước bàn thờ hay bức tượng của Bồ Tát Địa Tạng. Nếu là một nơi dân cư đông đúc, ngôi nhà gần nhất cạnh đó sẽ tăng cường thêm để có đủ chỗ cho lễ hội. Trong ngày này, bàn thờ và tôn tượng của Bồ Tát Địa Tạng được lau chùi sạch sẽ, sau đó người ta quấn những lá cờ hai màu đỏ trắng chung quanh tôn tượng của Ngài. Trước mỗi nhà, người ta treo những lồng đèn và sẽ được thắp sáng vào buổi tối tạo nên một màu hồng lung linh huyền ảo trong suốt các ngả đường trong đêm lễ hội.

Từ sáng sớm tinh mơ, dân chúng địa phương mang hoa quả, trà bánh, và nhang đèn đến để cúng lễ Bồ Tát Địa Tạng. Sau đó trẻ con tụ hội và vui chơi ăn uống suốt ngày. Tối đến người ta tham dự những cuộc đốt pháo và ăn dưa hấu. Cha mẹ và trẻ con trong những bộ y phục Kimono sặc sỡ cổ truyền cùng tham dự vui chơi và đây cũng là dịp giao tế làm nẩy nở tình thân giữa bà con xóm giềng ở trong vùng. Lễ hội "Jizo (Địa Tạng) Bodhìsatva" này cũng là dịp mà con trẻ tận hưởng những ngày hè tươi đẹp cuối cùng vì sau đó chúng bắt đầu trở lại trường học.

Tuy là một ngày hội dành cho thiếu nhi vui chơi nhưng Phật tử Nhật Bản đã biến dịp này thành một ngày lễ hội thắm đượm ý nghĩa tích cực của tôn giáo. Đây là một tập tục rất hay. Ta đã có ngày tết Nhi Đồng tức là lễ Trung Thu, nhưng từ trước đến nay đây chỉ là ngày để cho trẻ con vui chơi thuần tuý. Nhưng đâu có phải bất cứ trẻ thơ nào trên cõi đời này cũng có những diễm phúc được vui chơi như thế ? Trong xã hội chúng ta, và trên thế giới này vẫn còn rất nhiều những trẻ thơ thiếu ăn thiếu mặc, sống lăn lóc ở đầu đường xó chợ, suốt đời không hề được diễm phúc cắp sách đến trường. Có không biết bao nhiêu những trẻ thơ bị hành hạ, sách nhiễu (child abuse) đến thương tật hay mất mạng. Có những bé gái bất hạnh bị xô đẩy vào chốn lầu xanh để kiếm chút tiền nhỏ sống qua ngày. Và còn biết bao nhiêu thân phận của trẻ thơ bị vùi rập trong những cuộc chiến tang thương. Thế nên ngày tết Trung Thu, đặc biệt đối với những tổ chức thanh thiếu niên, nên là ngày giáo dục cho trẻ thơ theo tinh thần Địa Tạng, nghĩa là dạy cho trẻ con tinh thần vị tha biết thương yêu đùm bọc và chia sẻ, nhờ vậy khi lớn lên, hiểu được ý nghĩa của yêu thương, chúng sẽ không thể nào trở thành những người gieo rắc tai ương cho xã hội.

Chăm lo cho hạnh phúc của trẻ thơ chưa đủ, người Phật tử mang tinh thần Địa Tạng, mang sứ mệnh Địa Tạng còn phải biết cách chăm lo cho những linh hồn những trẻ thơ bất hạnh đã lìa đời ngay lúc còn thơ ấu, hoặc vì lý do nào đó đã chết khi đang còn là một bào thai ở trong bụng mẹ.

Trong tinh thần đó, cái chết của một bào thai vẫn được xem như là cái chết của một con người và cần có những nghi lễ xứng đáng. Đối với những người đã chết, Phật giáo có nghi thức cầu siêu, nhưng nghi thức cầu siêu chưa nói lên hết ý nghĩa đặc biệt của những người chết rất trẻ. Chính đó là đối tượng đặc biệt quan tâm của Bồ Tát Địa Tạng theo truyền thống Phật giáo Nhật Bản. Để tưởng niệm những trẻ thơ chết khi còn trong bụng mẹ (sảy thai, phá thai...) hoặc chỉ trải qua một vài năm ngắn ngủi của đời người, Phật giáo Nhật Bản có nghi lễ tôn thờ Địa Tạng Mizuko (Ấu thuỷ) -mà hình tượng là một nhà sư bồng một đứa trẻ ở trên tay và một hoặc hai đứa trẻ đang quấn quít dưới chân Ngài -vốn rất phổ thông trong đại chúng. Theo niềm tin tưởng từ lâu đời, người Nhật cho rằng mọi sinh vật đều được sinh ra từ lòng biển cả, kể cả đảo quốc và cư dân của đất Phù Tang, Ấu Thuỷ (Mizuko) vì thế được dùng để diễn tả phôi bào của những sinh vật đang nổi trôi bình bồng trong một thế giới đầy nước, chờ đợi được sinh ra nơi đời. Trước thế kỷ 20, tỉ lệ tử suất của trẻ con ở Nhật Bản ở mức độ rất cao, không đến 50% trẻ em sống sót đến 5-7 tuổi. Tuy nhiên đây không phải là lý do chính để người Nhật tạo ra biểu tượng Địa Tạng Mizuko mà truyền thống nghi lễ này chỉ mới hình thành trong khoảng thập niên 1960, khi dân Nhật trãi qua thời kỳ khó khăn về kinh tế, hậu quả của Đệ Nhị Thế Chiến. Trong điều kiện này, chính phủ Nhật Bản khuyến khích mỗi gia đình lý tưởng chỉ nên có hai con và vì thế phá thai là một trong những biện pháp được sử dụng để đạt đến chỉ tiêu này.

Tâm Hà

 (1) Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Phẩm thứ Tám, "Các Vua Diêm La Khen Ngợi".

(2) Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Phẩm thứ Sáu, "Như Lai Tán Thán".

(3 Xem "Jizo Bodhisattva, modern Healing & Traditional Buddhist Practice", Jan Chozens Bays, Tutle Publishing, 2002. P.73